Thảo luận Bài 1
+75
lakhaiphat-i11c
NgoDucTuan (I11C)
LyHuynhThanhYen (I11C)
minhgiangbc
PhamAnhKhoa(I11C)
dangminhthinh2107
lamhuubinh(I91C)
LeMinhDuc (I11C)
ThanhThao04(I11C)
HuynhVanNhut (I11C)
nguyenvanlinheban (I11C)
leanhhuy (I11C)
Nguyenminhduc (I11C)
HoangThiVe (I11C)
HoangThanhChuong (I11C)
nguyenthithutrang (I11C)
TranMinhThuc_I11C
NguyenCongVinh(102C)
PhamHuyHoang (I11C)
DangNgocMinh(I11C)
doanhongdao030(I11C)
hongthuanphong (I11C)
LUUDINHTOAN(I11C)
luuphuvinh1985
LeTanDat (I11C)
tranvanhai_21(I11c)
NguyenThiThanhThuy(I11C)
chauchanduong (I11C)
nguyen huynh nhu (102C)
NguyenTienPhong083 (I11C)
NgoMinhTien20 (I11C)
BuiMinhThong_110(I11C)
LeThiThuyDuong (I11C)
NguyenDoTu (I11C)
DaoVanHoang (I11C)
nguyenquoctruong (I11C)
truongsi93(I11C)
tranleanhngoc88(i11c)
n.t.tuyet.trinh90 (I11C)
TranTrungTinh(I11C)
NguyenVietThuan11
chauthanhvy146(I11C)
buithithudung24 (i11c)
HoangNgocQuynh(I11C)
nguyenthingocloan (I11C)
ToThiThuyTrang (I11C)
phamdieptuan (I11C)
vohongcong(I111C)
DuongTrungTinh(I11C)
nguyenvulinh_i11c
phamngoctan095 (I11C)
ledinhngankhanh (i11c)
TangHuynhThanhThanh I11C
phuongnt.i11c
NguyenHaThanh97 (I11C)
nguyenhoangthinh (I11C)
BuiVanHoc(I11C)
TranVanDucHieu I11c
TranMinhMan (I11C)
TranVuThuyVan_(I11C)
PhamThanhHoang31(I11C)
TruongThiThuyPhi(I11C)
LE DUY NHAT AN (I91C)
Nguyễn Hoàng Kiếm I91C
DuongKimLong(I111C)
lequocthinh (I11C)
BuiHoangTuan.131.I11C
nguyenminhlai.(I11C)
NguyenQuocThanh (I11C)
nguyenkylong (i11c)
NGUYENDINHNGHIA-I11C
tranvantoan83(I11c)
TranMinh (I11C)
TruongHanhPhuc (I11C)
Admin
79 posters
Trang 5 trong tổng số 7 trang
Trang 5 trong tổng số 7 trang • 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7
Ví dụ trong đời thường về Hệ Đa Chương
VD1: Thiết kế tấm thiệp hay một mẫu quảng cáo thì người ta ghép nhiều mẩu như hình ảnh, màu nền, nội dung,...riêng lẽ lại với nhau cho tương thích, nhìn vào ta thấy giống như cùng 1 mẩu chứ không phải được ghép từ nhiều mẩu rời rạc.
VD2: Trong mô hình thiết kế kiến trúc 1 ngôi nhà. Chi tiết các vật thể được xây dựng trên 1 sơ đồ gồm nhiều thiết kế tập hợp lại. Sau đó người đồ hoà sẽ phác hoạ thành 1 mô hình nhà 3D. Làm như vậy người xem sẽ không thấy được các thông số thiết kế bên dưới mà chỉ thấy được mẫu nhà đã thiết kế rồi.
VD2: Trong mô hình thiết kế kiến trúc 1 ngôi nhà. Chi tiết các vật thể được xây dựng trên 1 sơ đồ gồm nhiều thiết kế tập hợp lại. Sau đó người đồ hoà sẽ phác hoạ thành 1 mô hình nhà 3D. Làm như vậy người xem sẽ không thấy được các thông số thiết kế bên dưới mà chỉ thấy được mẫu nhà đã thiết kế rồi.
ToThiThuyTrang (I11C)- Tổng số bài gửi : 33
Join date : 25/08/2011
Age : 36
Đến từ : Bà Rịa-Vũng Tàu
Phân biệt HĐH đa xử lý với HĐH gom cụm?
- Các hệ đa xử lý hỗ trợ nhiều CPU, hay còn gọi là các hệ song song.
- Các hệ đa xử lý gồm: Đa xử lý đối xứng và đa xử lý phi đối xứng.
+ Đa xử lý đối xứng: Các CPU chung bộ nhớ và thiết bị, ngang hàng về chức năng.
VD: Solaris, OS/2, Linux.
Windows NT/2000/XP/2003.
- Windows 2000 professional: 2 CPU.
- Windows 2000 Server: 4 CPU.
- Windows 2000 Advanced Server: 8 CPU.
- Windows 2000 Datacenter Server: 32 CPU.
+ Đa xử lý phi đối xứng: Các CPU chung bộ nhớ và thiết bị. Mỗi CPU được ấn định chức năng riêng. Có CPU chủ (master) kiểm soát toàn bộ hệ thống, các CPU khác đóng vai trò phục vụ (slaves), chuyên trách công việc nào đó. Master điều phối và cấp phát công việc cho các Slaves.
VD: HĐH SunOS 4.x
- Các hệ gom cụm: nhiều máy nối mạng để cùng thực hiện công việc chung.
- Các hệ gom cụm gồm: gom cụm đối xứng và gom cụm phi đối xứng.
+ Gom cụm đối xứng: Các máy ngang hàng về chức năng, mỗi máy thực hiện phần việc của mình và giám sát lẫn nhau.
+ Gom cụm phi đối xứng: một máy chạy trong Host standby mode, nghĩa là chỉ giám sát công việc của các máy khác nhưng sẽ đảm đương công việc của máy gặp sự cố.
- Các hệ đa xử lý gồm: Đa xử lý đối xứng và đa xử lý phi đối xứng.
+ Đa xử lý đối xứng: Các CPU chung bộ nhớ và thiết bị, ngang hàng về chức năng.
VD: Solaris, OS/2, Linux.
Windows NT/2000/XP/2003.
- Windows 2000 professional: 2 CPU.
- Windows 2000 Server: 4 CPU.
- Windows 2000 Advanced Server: 8 CPU.
- Windows 2000 Datacenter Server: 32 CPU.
+ Đa xử lý phi đối xứng: Các CPU chung bộ nhớ và thiết bị. Mỗi CPU được ấn định chức năng riêng. Có CPU chủ (master) kiểm soát toàn bộ hệ thống, các CPU khác đóng vai trò phục vụ (slaves), chuyên trách công việc nào đó. Master điều phối và cấp phát công việc cho các Slaves.
VD: HĐH SunOS 4.x
- Các hệ gom cụm: nhiều máy nối mạng để cùng thực hiện công việc chung.
- Các hệ gom cụm gồm: gom cụm đối xứng và gom cụm phi đối xứng.
+ Gom cụm đối xứng: Các máy ngang hàng về chức năng, mỗi máy thực hiện phần việc của mình và giám sát lẫn nhau.
+ Gom cụm phi đối xứng: một máy chạy trong Host standby mode, nghĩa là chỉ giám sát công việc của các máy khác nhưng sẽ đảm đương công việc của máy gặp sự cố.
LeTanDat (I11C)- Tổng số bài gửi : 24
Join date : 30/08/2011
So sánh hệ xử lý lô (Batch Systems) với HĐH xử lý đa chương (Multiprogramming Systems))
- Xử lý lô: mỗi tiến trình chỉ có một tác vụ, một người dùng, một chương trình. Tại mỗi thời điểm chỉ có một tiến trình hay một tác vụ trong bộ nhớ.
- HĐH xử lý đa chương: cho phép nhiều tác vụ (tiến trình) cùng một lúc trong bộ nhớ. Khi một tác vụ không cần đến CPU (do phải thực hiện I/O với thiết bị bên ngoài), tác vụ khác được thi hành.
VD: Trong nhà hàng người bồi bàn (CPU) phục vụ bàn ăn này (tiến trình) và chỉ chuyển sang phục vụ bàn khác (tiến trình khác) khi thực khách có yêu cầu.
- Hệ chia thời gian (Time-Sharing Systems): là trường hợp đặc biệt của hệ đa chương. Mỗi tác vụ chỉ được dùng CPU trong một khoảng thời gian ngắn (ví dụ với thời lượng 20ms), sau đó bị ngắt chuyển sang tác vụ khác, cứ thế xoay vòng. Mỗi người dùng đều có cảm giác là máy tính chỉ phục vụ cho mình là duy nhất.
VD: Trong nhà hàng, người bồi bàn (CPU) phục vụ mỗi bàn ăn (chương trình người dùng) trong khoảng một thời gian ngắn (khoảng 2 phút), sau đó chuyển sang bàn khác.
- HĐH xử lý đa chương: cho phép nhiều tác vụ (tiến trình) cùng một lúc trong bộ nhớ. Khi một tác vụ không cần đến CPU (do phải thực hiện I/O với thiết bị bên ngoài), tác vụ khác được thi hành.
VD: Trong nhà hàng người bồi bàn (CPU) phục vụ bàn ăn này (tiến trình) và chỉ chuyển sang phục vụ bàn khác (tiến trình khác) khi thực khách có yêu cầu.
- Hệ chia thời gian (Time-Sharing Systems): là trường hợp đặc biệt của hệ đa chương. Mỗi tác vụ chỉ được dùng CPU trong một khoảng thời gian ngắn (ví dụ với thời lượng 20ms), sau đó bị ngắt chuyển sang tác vụ khác, cứ thế xoay vòng. Mỗi người dùng đều có cảm giác là máy tính chỉ phục vụ cho mình là duy nhất.
VD: Trong nhà hàng, người bồi bàn (CPU) phục vụ mỗi bàn ăn (chương trình người dùng) trong khoảng một thời gian ngắn (khoảng 2 phút), sau đó chuyển sang bàn khác.
TranTrungTinh(I11C)- Tổng số bài gửi : 28
Join date : 30/08/2011
So sánh Linux và Windows
1. Tại sao mọi người vẫn chưa sử dụng Linux nhiều?
+ Tại vì ở VN thì ngay từ lúc bắt đầu học về tin học là chúng ta đã học về Microsoft Windows. Sử dụng dần thì sẽ hình thành một thói quen.
+ Muốn sử dụng Linux phải có một kiến thức tin học nhất định nhưng Microsoft Windows thì không. (Bạn chỉ cần ra tiệm Internet coi mấy chú nhóc chơi điện tử là biết liền).
2. Linux thực sự có thể thay thế windows chưa (đặc biệt là windows 7 như hiện nay)?
Theo mình thì Linux chưa thể thay thế được windows tại thị trường Việt Nam vì những lí do đã nêu trên. Muốn thay thế được thì phải cần chiến lược phổ cập và đầu tư lâu dài vào Linux.
3. Những phần mềm phổ biến hiện nay đã hỗ trợ cho Linux chưa?
Hiện nay có rất nhiều phần mềm phổ biến trên Linux, mình chia sẻ cho các bạn link vào tham khảo nha. Có rất nhiều chương trình hay.
http://forum.ubuntu-vn.org/viewtopic.php?f=101&t=11679
+ Tại vì ở VN thì ngay từ lúc bắt đầu học về tin học là chúng ta đã học về Microsoft Windows. Sử dụng dần thì sẽ hình thành một thói quen.
+ Muốn sử dụng Linux phải có một kiến thức tin học nhất định nhưng Microsoft Windows thì không. (Bạn chỉ cần ra tiệm Internet coi mấy chú nhóc chơi điện tử là biết liền).
2. Linux thực sự có thể thay thế windows chưa (đặc biệt là windows 7 như hiện nay)?
Theo mình thì Linux chưa thể thay thế được windows tại thị trường Việt Nam vì những lí do đã nêu trên. Muốn thay thế được thì phải cần chiến lược phổ cập và đầu tư lâu dài vào Linux.
3. Những phần mềm phổ biến hiện nay đã hỗ trợ cho Linux chưa?
Hiện nay có rất nhiều phần mềm phổ biến trên Linux, mình chia sẻ cho các bạn link vào tham khảo nha. Có rất nhiều chương trình hay.
http://forum.ubuntu-vn.org/viewtopic.php?f=101&t=11679
luuphuvinh1985- Tổng số bài gửi : 7
Join date : 01/09/2011
phân tích định nghĩa hệ điều hành là bộ quản lý tài nguyên
Hệ điều hành là một phần mềm chạy trên máy tính, dùng để điều hành, quản lý các thiết bị phần cứng và các tài nguyên phần mềm trên máy tính.
Hệ điều hành đóng vai trò trung gian trong việc giao tiếp giữa người sử dụng và phần cứng máy tính, cung cấp một môi trường cho phép người sử dụng phát triển và thực hiện các ứng dụng của họ một cách dễ dàng.
Hệ điều hành đóng vai trò trung gian trong việc giao tiếp giữa người sử dụng và phần cứng máy tính, cung cấp một môi trường cho phép người sử dụng phát triển và thực hiện các ứng dụng của họ một cách dễ dàng.
nguyenthingocloan (I11C)- Tổng số bài gửi : 33
Join date : 26/08/2011
phân biệt hđh đa xử lý với hđh gom cụm.
*Hệ gom cụm :
- Nhiều máy nối mạng để cùng thưc hiện việc chung.
- Phân loại:
+ Gom cụm đối xứng:các máy ngang hàng về chức năng,Mối máy thực hiện phần việc của mình và giám sát lẫn nhau.
+ Gom cụng phi đối xứng:Một máy chay trong hot Standby Mode,Nghĩa là chỉ giám sát công việc các máy khác nhưng sẽ đảm đương công việc của máy gặp sự cố.
* Hệ đa xử lý :
- Hệ đa xử lý là hệ hỗ trợ nhiều CPU còn gọi là hệ song song .
- Giúp tăng thông suất, tiết kiệm và tăng độ tin cậy.
- Phân loại:
+ Đa xử lý đối xứng:Có nhiều CPU cùng vận hành và sử dụng chung bộ nhớ, thiết bị. Các CPU này ngang hàng về chức năng
+ Đa xử lý phi đối xứng: Các CPU sử dụng chung bộ nhớ, thiết bị. Mỗi CPU thực hiện 1 chức năng riêng. Có 1 CPU Master điều phối công việc cho các CPU Slaves còn lại.
- Nhiều máy nối mạng để cùng thưc hiện việc chung.
- Phân loại:
+ Gom cụm đối xứng:các máy ngang hàng về chức năng,Mối máy thực hiện phần việc của mình và giám sát lẫn nhau.
+ Gom cụng phi đối xứng:Một máy chay trong hot Standby Mode,Nghĩa là chỉ giám sát công việc các máy khác nhưng sẽ đảm đương công việc của máy gặp sự cố.
* Hệ đa xử lý :
- Hệ đa xử lý là hệ hỗ trợ nhiều CPU còn gọi là hệ song song .
- Giúp tăng thông suất, tiết kiệm và tăng độ tin cậy.
- Phân loại:
+ Đa xử lý đối xứng:Có nhiều CPU cùng vận hành và sử dụng chung bộ nhớ, thiết bị. Các CPU này ngang hàng về chức năng
+ Đa xử lý phi đối xứng: Các CPU sử dụng chung bộ nhớ, thiết bị. Mỗi CPU thực hiện 1 chức năng riêng. Có 1 CPU Master điều phối công việc cho các CPU Slaves còn lại.
nguyenthingocloan (I11C)- Tổng số bài gửi : 33
Join date : 26/08/2011
Re: Thảo luận Bài 1
n.t.tuyet.trinh90 (I11C) đã viết:Ban ơi bạn có thể cho mình và mọi người biết nguồn gốc thông tin bạn post không? Thanks bạn.nguyenhoangthinh (I11C) đã viết:
1/Quản lý tiến trình(process management)
-Tiến trình là một chương trình đang thực thi
-Một tiến trình cần tài nguyên của hệ thống như:CPU time,bộ nhớ,files,thiết bị I/O để hoàn thành công việc.
-Các tac vụ hệ điều hành cung cấp:
+Tạo,huỷ tiến trình
+Tạm ngưng,tiếp tục thực thi chương trình
+Cung cấp cơ chế đồng bộ tiến trình.
+Cung cấp cách thông tin giữa các tiến trình.
+Cung cấp cơ chế kiểm soát tắt nghẽn.
2/Quàn lý bộ nhớ chính(memory management):
-Bộ nhớ chính : 1 dãy các ô nhớ được đánh địa chỉ.Bộ nhớ chính được truy xuất trực tiếp bởi CPU và thiết bị I/O.
-Bộ nhớ chính là thiết bị chứa tin không bền vững.Khi không có nguồn,thông tin lưu trữ trong bộ nhớ chính sẽ mất đi.
-Một chương trình muốn thực thi thì phải được nạp vào bộ nhớ chính và được ánh xạ địa chỉ tuyệt đối.
-Các tác vụ hệ điều hành cung cấp:
+Theo dõi quản lý các vùng nhớ
+Quyết định tiến trình nào sẽ được nạp khi có vùng nhớ trống.
+Có chiếc lược cấp phát và thu hồi không gian nhớ.
3/Quản lý file(File management):
-File,thư mục:
+File: đơn vị lưu trữ thông tin luận lý trên thiết bị lưư trữ.Là tập hợp các thông tin có liên quan đến chương trình,dữ liệu.
+Thư mục: chứa các file và thư mục con.
-Các tác vụ hệ điều hành cung cấp:
+Tạo,xoá file/thư mục
+Hỗ trợ các tác vụ xử lý file/thư mục
+Ánh xạ file vào thiết bị lưu trữ thứ cấp.
+Sao lưu(backup) thông tin trên thiết bị chứa tin bền vững.
4/Quản lý hệ thống I/O (I/O System Management):
-Hệ điều hành chịu trách nhiệm che giấu các đặ trưng riêng biệt của từng thết bị I/O,cung cấp một giao diện thống nhất,thuận tiện cho user sử dụng.
-Các tác vụ của hệ điều hành cung cấp:
+Thành phần quản lý bộ nhớ : buffering,caching,spooling.
+Một giao diện điều khiển thiết bị tổng quát.
+Drivers cho từng thiết bị riêng biệt.
5/Quản lý bộ nhớ thứ cấp(Secondary Storage Management):
-Bộ nhớ chính có kích thước nhỏ và là môi trường chứa tin không bền vững.Do đó máy tính cần hệ thống lưu trữ thứ cấp để lưu trữ bền vững các thông tin cần thiết.
-Các tác vụ hệ điều hành cung cấp:
+Quản lý vùng đĩa trông
+Phân phối không gian lưu trữ .
+Định thời truy cập đĩa.
6/Hệ thống bảo vệ (Protection System):
-Các tiến trình phải được bảo vệ bởi các hoạt đông khác.
-Hệ thống cung cấp cơ chế để đảm bảo rằng tập tin,bộ nhớ,CPU,và những tài nguyên khác chỉ được truy xuất bởi những tiến trình có quyền.
-Các tác vụ hệ điều hành cung cấp:
+Phân định được sự truy cập tài nguyên hợp pháp và bất hợp pháp.
+Định rõ các chính sách truy cập tài nguyên
+Cung cấp các pphương tiên áp chế.
7/Hệ thống biên dịch dòng lệnh(Command-Interpreter System):
-Bộ thông dịch lệnh(command interprefer)
+giao diện giữa user và hệ điều hành.
+Chờ nhận lệnh từ user và thực thi
-Các lệnh điều khển(control statement):các lệnh từ bộ thông dịch lệnh gởi đến hệ điều hành.
À, bạn ơi. Đây là tài liệu lúc trước mình học bên cao đẳng !!! Nếu cần có thể liên hệ mình....
nguyenhoangthinh (I11C)- Tổng số bài gửi : 34
Join date : 25/08/2011
File-Server và Client-Server
File-Server, khi mà cơ sở dữ liệu được lưu dưới dạng tệp trên đĩa cứng. Trong phương án này, trên cùng một cơ sở dữ liệu có thể làm việc cho 1 hoặc nhiều người sử dụng. Ưu điểm của phương án này là không cần thêm các phần mềm bổ sung ngoài Nền tảng «1C:DOANH NGHIỆP» và hệ điều hành, và như vậy, đơn giản hoá việc cài đặt và thiết lập hệ thống.
Sơ đồ làm việc của File-Server như sau:
Client-Server, khi dữ liệu được lưu trữ ở cơ sở dữ liệu tại Server dưới sự điều hành của các hệ quản trị CSDL như: Oracle Database, MS SQL-Server, IBM DB2 hoặc Postgre SQL. Phiên bản «1C:DOANH NGHIỆP» mới làm việc trên cấu trúc 3 tầng, mà trong đó, phần Client không làm việc trực tiếp với cơ sở dữ liệu trên Server mà thực hiện thông qua Server «1C:DOANH NGHIỆP», tiếp theo đó, trong trường hợp cần thiết, Server «1C:DOANH NGHIỆP» mới kết nối với cơ sở dữ liệu của Server.
Sơ đồ chung của phương án Client-Server như sau:
Cầu trúc 3 tầng "Client-Server" làm tăng rộng giới hạn khả năng xử lý dữ liệu của «1C:DOANH NGHIỆP», cho phép giảm bớt thời gian xử lý dữ liệu trên các máy trạm (Client).
Trên thực tế, «1C:DOANH NGHIỆP» Server và hệ quản trị CSDL có thể cài đặt trên cùng một máy tính, hoặc trên các máy tính khác nhau. Điều này cho phép người quản trị hệ thống có thể tự phân bố các mức tải trên các máy Server.
Một điểm quan trọng nữa khi sử dụng cấu trúc 3 tầng là thuận tiện trong việc quản lý quyền hệ thống và phân bổ quyền của người sử dụng đối với cơ sở dữ liệu.
Sơ đồ làm việc của File-Server như sau:
Client-Server, khi dữ liệu được lưu trữ ở cơ sở dữ liệu tại Server dưới sự điều hành của các hệ quản trị CSDL như: Oracle Database, MS SQL-Server, IBM DB2 hoặc Postgre SQL. Phiên bản «1C:DOANH NGHIỆP» mới làm việc trên cấu trúc 3 tầng, mà trong đó, phần Client không làm việc trực tiếp với cơ sở dữ liệu trên Server mà thực hiện thông qua Server «1C:DOANH NGHIỆP», tiếp theo đó, trong trường hợp cần thiết, Server «1C:DOANH NGHIỆP» mới kết nối với cơ sở dữ liệu của Server.
Sơ đồ chung của phương án Client-Server như sau:
Cầu trúc 3 tầng "Client-Server" làm tăng rộng giới hạn khả năng xử lý dữ liệu của «1C:DOANH NGHIỆP», cho phép giảm bớt thời gian xử lý dữ liệu trên các máy trạm (Client).
Trên thực tế, «1C:DOANH NGHIỆP» Server và hệ quản trị CSDL có thể cài đặt trên cùng một máy tính, hoặc trên các máy tính khác nhau. Điều này cho phép người quản trị hệ thống có thể tự phân bố các mức tải trên các máy Server.
Một điểm quan trọng nữa khi sử dụng cấu trúc 3 tầng là thuận tiện trong việc quản lý quyền hệ thống và phân bổ quyền của người sử dụng đối với cơ sở dữ liệu.
Nguyên lý hoạt động của Hệ điều hành Chia thời gian (Time – Sharing System).
+ Là loại hệ điều hành đa chương (Multi-programmed systems) nhưng không cung cấp khả năng tương tác với users
+ CPU luân phiên chuyển đổi thực thi giữa các công việc
+ Quá trình chuyển đổi xảy ra thường xuyên hơn, mỗi công việc chỉ được chia một phần nhỏ thời gian CPU
+ Cung cấp sự tương tác giữa hệ thống với user
Khi kết thúc thực thi một lệnh, OS sẽ chờ lệnh kế tiếp từ bàn phím chứ không phải từ card reader
+ Một công việc chỉ được chiếm CPU để xử lý khi nó nằm trong bộ nhớ chính
+ Khi cần thiết, một công việc nào đó có thể được chuyển từ bộ nhớ chính ra thiết bị lưu trữ, nhường bộ nhớ chính cho công việc khác.
+ Yêu cầu đối với OS trong Time-Sharing Systems
+ Định thời công việc (job scheduling)
+ Quản lý bộ nhớ (Memory Management)
o Các công việc được hoán chuyển giữa bộ nhớ chính và đĩa
o Virtual memory: cho phép một công việc có thể được thực thi mà không cần phải nạp hoàn toàn vào bộ nhớ chính
+ Quản lý các process (Process Management)
o Định thời CPU (CPU scheduling)
o Đồng bộ các công việc (synchronization)
o Tương tác giữa các công việc (process communication)
o Tránh Deadlock
+ Quản lý hệ thống file, hệ thống lưu trữ (disk management)
+ Phân bổ các thiết bị, tài nguyên
+ Cơ chế bảo vệ (protection)
+ CPU luân phiên chuyển đổi thực thi giữa các công việc
+ Quá trình chuyển đổi xảy ra thường xuyên hơn, mỗi công việc chỉ được chia một phần nhỏ thời gian CPU
+ Cung cấp sự tương tác giữa hệ thống với user
Khi kết thúc thực thi một lệnh, OS sẽ chờ lệnh kế tiếp từ bàn phím chứ không phải từ card reader
+ Một công việc chỉ được chiếm CPU để xử lý khi nó nằm trong bộ nhớ chính
+ Khi cần thiết, một công việc nào đó có thể được chuyển từ bộ nhớ chính ra thiết bị lưu trữ, nhường bộ nhớ chính cho công việc khác.
+ Yêu cầu đối với OS trong Time-Sharing Systems
+ Định thời công việc (job scheduling)
+ Quản lý bộ nhớ (Memory Management)
o Các công việc được hoán chuyển giữa bộ nhớ chính và đĩa
o Virtual memory: cho phép một công việc có thể được thực thi mà không cần phải nạp hoàn toàn vào bộ nhớ chính
+ Quản lý các process (Process Management)
o Định thời CPU (CPU scheduling)
o Đồng bộ các công việc (synchronization)
o Tương tác giữa các công việc (process communication)
o Tránh Deadlock
+ Quản lý hệ thống file, hệ thống lưu trữ (disk management)
+ Phân bổ các thiết bị, tài nguyên
+ Cơ chế bảo vệ (protection)
hongthuanphong (I11C)- Tổng số bài gửi : 18
Join date : 26/08/2011
ví dụ từ đời thường minh hoạ chế độ phục vụ chia thời gian.
Trong nhà hàng, người bồi bàn (CPU) phục vụ mỗi bàn ăn (Chương trình người dùng) trong 1 khoảng thời gian ngắn (chẳng hạn trong 10 giây), sau đó chuyển sang bàn khác.
hongthuanphong (I11C)- Tổng số bài gửi : 18
Join date : 26/08/2011
Trên các máy lớn thời kỳ đầu, Hệ Xử lý lô hoạt động thế nào?
Hệ thống xử lý lô hoạt động dưới sự điều khiển của 1 chương trình đặc biệt là tiền thân của hệ điều hành sau này. Ngôn ngữ lập trình xử dụng trong thời gian này chủ yếu là FORTRAN và hợp ngữ. Nó lưu các yêu cầu cần thực hiện lên băng từ, và hệ thống sẽ đọc và thi hành lần lượt. Sau đó, nó sẽ ghi kết quả lên băng từ xuất và cuối cùng người xử dụng sẽ đem băng xuất đi in.
doanhongdao030(I11C)- Tổng số bài gửi : 17
Join date : 01/09/2011
Re: Thảo luận Bài 1
TruongHanhPhuc (I11C) đã viết:File-server: là mô hình trong đó một máy tính có nhiệm vụ làm nơi lưu trữ dữ liệu, cho phép các máy tính trong cùng hệ thống mạng có thể lưu trữ và truy xuất file đang lưu trên đó. File-server giúp các máy tính trong cùng hệ thống mạng có thể chia sẻ file với nhau không cần thông qua các thiết bị lưu trữ tạm thời như USB, đĩa CD/DVD hay ổ cứng di động để truyền file. Trong một mô hình mạng đơn giản, File-server có thể chỉ là một máy tính bình thường đóng vai trò làm nơi chia sẻ file. Trong một hệ thống mạng phức tạp hơn, File-Server có thể là một thiết bị NAS (network-attached storage).
Client-server: là một mô hình được sử dụng rộng rãi trong mạng máy tính. Ý nghĩa của mô hình này là máy khách (Client) sẽ gửi yêu cầu đến máy chủ (Server), máy chủ sẽ xử lý và trả kết quả về cho máy khách. Những yêu cầu ở đây có thể là một trang web (Web-Server), Email (Mail-Server).... Mô hình Client-Server bao gồm cả File-Server vì nó hỗ trợ cả việc lưu trữ và chia sẻ file.
mình cũng có mấy ý này đóng góp
Trong mô hình này, chức năng của hạt nhân chỉ là kiểm soát quá trình thông tin giữa client và server. Bằng cách chia hệ điều hành thành những phần nhỏ, mỗi phần chỉ kiểm soát một mặt của hệ thống như các dịch vụ về tập tin, tiến trình, terminal, bộ nhớ, mỗi phần sẽ gọn hơn và dể quản lý hơn. Hơn nữa, tất cả server thực hiện như những tiến trình ở mức độ người dùng (user-mode) không phải ở mức độ hạt nhân (kernel-mode), nên nó không truy xuất trực tiếp phần cứng. Do đó, nếu server tập tin bị lỗi, các dịch vụ về tập tin có thể bị hỏng nhưng nó thường không gây ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống.
Một ưu điểm khác của mô hình client-server là nó có thể tương thích dể dàng với mô hình hệ thống phân tán. Nếu một client giao tiếp với một server bằng cách gửi những thông điệp, họ không biết là khi nào thông điệp đó đang được xử lý cục bộ tại máy hay được gửi vào mạng đến server trên một máy từ xa. Khi client quan tâm đến, một yêu cầu được gửi đi và một trả lời đáp ứng diễn ra như nhau.
DangNgocMinh(I11C)- Tổng số bài gửi : 26
Join date : 31/08/2011
Các câu hỏi bài 1 thầy đưa ra trên lớp, bạn nào ko biết thì xem để thi cuối kỳ nhé
Đây là bài 1: (các câu hỏi của các bài tiếp theo mình sẽ post lên sau mỗi buổi học )
Câu 1: Trình bày mục tiêu, mô tả vắn tắt, ý nghĩa và cấu trúc của môn học HDH.
Câu 2: Phân tích, định nghĩa HDH là máy tính mở rộng hay máy tính ảo.
Câu 3: Phân tích, định nghĩa HDH là bộ quản lý tài nguyên.
Câu 4: Trình bày khái niệm HDH đa chương và phân biệt với HDH chia thời gian.
Câu 5: Trình bày khái niệm HDH đa xử lý.
Câu 6: Trình bày khía niệm HDH gom cụm
Câu 1: Trình bày mục tiêu, mô tả vắn tắt, ý nghĩa và cấu trúc của môn học HDH.
Câu 2: Phân tích, định nghĩa HDH là máy tính mở rộng hay máy tính ảo.
Câu 3: Phân tích, định nghĩa HDH là bộ quản lý tài nguyên.
Câu 4: Trình bày khái niệm HDH đa chương và phân biệt với HDH chia thời gian.
Câu 5: Trình bày khái niệm HDH đa xử lý.
Câu 6: Trình bày khía niệm HDH gom cụm
DaoVanHoang (I11C)- Tổng số bài gửi : 24
Join date : 31/08/2011
Re: Thảo luận Bài 1
TranMinh (I11C) đã viết:- Mô hình peer-to-peer hay còn gọi là mô hình mạng ngang hàng là một kiểu mạng được thiết kế trong đó nhiệm vụ và chức năng của các thiết bị tham gia vào mô hình mạng là như nhau.
- Mạng peer-to-peer không có khái niệm Server/Client mà chỉ có các Node (peer) đóng vai trò vừa là Server và vừa là Client.
Bittorrent là 1 ứng dụng điển hình sử dụng mô hình peer-to-peer mà các bạn đang sử dụng hiện nay .
Ưu điểm và nhược điểm của Peer-to-Peer
· Ưu điểm
- Các peer tham gia vào mạng có thể đóng góp tài nguyên chia sẻ với nhau, tài nguyên có thể riêng lẻ và có thể truy cập tài nguyên ở bất các các nodes nào trong mạng.
- Các peer đóng vai tròn như cả Client khi truy vấn thông tin và Server khi cung cấp thông tin.
- Không cần Server riêng, khi hệ thống càng mở rộng thì khả năng hoạt động càng tốt.
- Chi phí thấp, dễ cài đặt và bảo trì
· Nhược điểm
- Liên quan đến văn hóa trong chia sẻ về các tài nguyên có bản quyền.
- Không đáng tin cậy và không tốt cho các ứng dụng cơ sở dữ liệu cần bảo mật cao.
Với lại, theo như bạn nói, mô hình p-2-p này không bảo mật cao, mình xin bổ sung thêm ý là bởi vì nó không được 1 nơi nào đó quản lý. chính vì thế mà nó xuất hiện mô hình client-server, mọi xử lý của client trong mạng đều phải qua server để server quản lý truyền đi. nói đơn giản là thế.
NguyenVietThuan11- Tổng số bài gửi : 34
Join date : 30/08/2011
Age : 36
Đến từ : Đồng Nai
Re: Thảo luận Bài 1
ToThiThuyTrang (I11C) đã viết:Ngày nay Linux đang dần trở nên phổ biến hơn, phần mềm hỗ trợ cũng nhiều hơn. Bên cạnh đó là một loạt những cải tiến quan trọng xuất hiện như hiệu ứng đồ họa 3D của Compiz và Beryl, hỗ trợ những nền tảng máy tính mới, trình điều khiển cho card màn hình của ATI và nVidia, hỗ trợ đa phương tiện ngày càng hoàn hảo… Vậy thì thử xem xem Linux và Windows, ai hơn ai!
1. Giá cả:
- Linux thắng 1-0.
2. Tính dễ dùng:
- Hòa, mỗi bên thêm 1 điểm!
3. Hỗ trợ phần cứng:
- Linux vẫn thua Windows về khoản này. Cho Windows 1 điểm nữa!
4. Phần mềm:
- Windows lại thắng thêm 1 điểm nữa.
5. Giao diện người dùng:
- Linux thêm 1 điểm nữa.
6. Bảo mật: Linux ít phổ biến hơn Windows, cho nên giới tin tặc thường ngắm đến Windows nhiều hơn là Linux.
- Linux không phải miễn nhiễm nhưng Linux an toàn hơn Windows rất nhiều.
Theo các bạn thì nghĩ thế nào?
Theo quan điểm ý kiến cá nhân thì :
5. Giao diện người dùng: giao diện windows trực quang và dễ dùng hơn so với các loại hệ điều hành khác, thân thiện với những newbie khi mới sử dụng máy tính , khi bạn mua bản quyền của windows như mình hiện tại đang xài windows 7 enterprise thì mình được support rất nhiều vấn đề về phần cứng cũng như phần mềm nếu xảy ra sự cố .
6. Bảo mật : thực chất trên thế giới , số người sử dụng hệ điều hành windows tới 70% và các tin tặc cũng đều nhắm vào windows để khai thác lỗ hổng....thực chất microsoft thường đưa ra các bản thử nghiệm miễn phí ra thị trường là để cho mọi người quen với giao diện, ứng dụng mới và quan trọng là phát hiện ra các lỗi trên đó, cho phép microsoft khắc phục lỗi và hoàn thiện sản phẩm trước khi tung bản chính thức ra thị trường.
NGUYENDINHNGHIA-I11C- Tổng số bài gửi : 36
Join date : 25/08/2011
Re: Thảo luận Bài 1
BuiHoangTuan.131.I11C đã viết:TruongHanhPhuc (I11C) đã viết:LE DUY NHAT AN (I91C) đã viết:Mặc dù windows nhiều người sử dụng thiệt, nhưng mình cảm thấy 1 vài ý kiến của bạn ko đúng
bạn nói Giao diện không hấp dẫn, hiện tại Linux có giao diện thân thiện hơn rồi ko như bản server lúc xưa, có giao diện rất đẹp thậm chí theo đánh giá compiz-fusion của Linux hơn cả win 7, về cài đặt ứng dụng thì cũng ko cần gõ lệnh nua , ai pro thì có thể sài command nhưng không biết vẫn có thể cài đặt qua giao diện hỗ trợ rất đầy đủ và dễ hiểu.
Theo ý kiến riêng của mình nghĩ thật ra chỉ có việt nam mình và 1 vài nước thuộc khu vức Châu Á là sài đa phần windows chứ thật sự các nước phương tây người ta buộc phải sài mã nguồn mở, vì giá bản quyền quá mắc, nếu giả sử VN mình ko có các cracker ngoài nước thì liệu đến giờ mình co tiếp cần được windows không (đa phần các cracker đều là người nước ngoài, VN chỉ thông qua cách thức crack từ nước ngoài để crack sau này thôi)
Nhưng bạn nói đúng ở chỗ vì do đa phần tại Vn khi được tiếp xúc đầu tiền là nền tảng windows nên thói quen sài windows, cũng giống như người VN nói tiếng Việt giỏi nhưng tiếng Anh không giỏi, nhưng liệu điều này đúng không nếu 1 ngày VN áp dụng luật bản quyền chặt chẽ như nước ngoài thì các bạn có bỏ mấy trăm $ ra mua bản quyền không (đang nói cá nhân).
Cũng cảm ơn các bạn đã cho mình thêm thông tin.
Thực tế thì không phải giao diện của hệ điều hành mã nguồn mở không thân thiện mà là chưa thân thiện. Do đội ngũ lập trình viên không tập trung nên chưa có được sự thân thiện với người dùng mà thôi. Như giao diện trên một số máy điện thoại dùng Android của một số hãng (Sony, Samsung) rất thân thiện và dễ sử dụng. Bản thân hệ điều hành MAC cũng từ Unix-Linux mà ra đấy thôi.
Ý của các bạn LE DUY NHAT AN (I91C), và TruongHanhPhuc (I11C) rất thiết thật.
Là người dùng hay thay thích khám phá, các bạn thử một lần cài đặt ubuntu và dùng nó thay thế HĐH windows xem thế nào, các bạn sẽ thấy được sự so. Theo cảm nhận của tôi thì chưa đến lúc thay thế windows hoàn toàn theo nhiều góc độ. Nếu chúng ta đều là kỹ thuật viên thì mày mò khám phá một HĐH mới thật sự không khó, nhưng đối với một người dùng có tuổi, khả năng tiếp thu hạn chế thì đó là một vấn đều lớn. Điều này Microsoft đã làm được, tức là mức độ phổ biến lan tỏa, không phụ thuộc bất kỳ đối tượng sử dụng nào. Chính điều đó là đều tôi quan tâm nhất đối với một HĐH.
Các bạn nói linux khó dùng, gõ command, và hơi khó khăn cho trong công việc hằng ngày, cũng như học tập chưa hỗ trợ nhiều soft như windows... điều này MAC OS đã đang làm rất tốt, bằng cách đưa Apps lên đám mây. Đừng quên MAC OS cũng là một HĐH từ Unix giống như linux OS, Oracle Solaris OS... Apple làm thế đều có nguyên do cả, họ đang gầy dựng mức độ ảnh hưởng người dùng đào tẩu sang MAC OS đó các bạn ạh. Với giao diện thân thiện, hình ảnh cực đẹp, chi phí rẻ chỉ bằng 1/3,... khi mà apps nhiều lên rồi bạn sẽ có một kho ứng dụng free và crack nhiều đến mức bạn đã từng thấy trên windows vậy, ngày đó sẽ không còn xa.
Vài dòng chia sẻ quan niệm của mình hy vọng sẽ góp ý cho topic về HĐH.
Theo cá nhân mình thì mỗi hệ điều hành đều có điểm mạnh và yếu riêng, lúc còn xài windows xp sp2 thì vẫn chạy tốt và mượt đó tới khi chuyển qua xài thử windows 7 thì không ai muốn chuyển về xp vì giao diện đẹp và nhiều ứng dụng hỗ trợ người dùng khác..., trong mỗi chúng ta ai cũng từng muốn xài thử qua một hệ điều hành khác để cảm nhận nó như thế nào, thích khám quá cái mới mẻ của công nghệ , mỗi người đều có nhu cầu và sở thích với mỗi hệ điều hành, tôi thích xài windows một phần không phải là giao diện đẹp , nhiều ứng dụng mà là vì nó support user tốt , sắp tới cũng tính cài nâng cấp lên windows 8.
NGUYENDINHNGHIA-I11C- Tổng số bài gửi : 36
Join date : 25/08/2011
Chức năng chính yếu hệ điều hành
Quản lý chia sẻ tài nguyên
Tài nguyên của hệ thống (CPU, bộ nhớ, thiết bị ngoại vi,...) vốn rất giới hạn, nhưng trong các hệ thống đa nhiệm, nhiều người sử dụng có thể đồng thời yêu cầu nhiều tài nguyên. Để thỏa mãn yêu cầu sử dụng chỉ với tài nguyên hữu hạn và nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, hệ điều hành cần phải có cơ chế và chiến lược thích hợp để quản lý việc phân phối tài nguyên.
Ngoài yêu cầu dùng chung tài nguyên để tiết kiệm chi phí, người sử dụng còn cần phải chia sẻ thông tin (tài nguyên phần mềm) lẫn nhau, khi đó hệ điều hành cần đảm bảo việc truy xuất đến các tài nguyên này là hợp lệ, không xảy ra tranh chấp, mất đồng nhất,...
[sửa] Giả lập một máy tính mở rộng
Hệ điều hành làm ẩn đi các chi tiết phần cứng, người sử dụng được cung cấp một giao diện đơn giản, dễ hiểu, dễ sử dụng và không phụ thuộc vào thiết bị phần cứng cụ thể.
Thực tế, ta có thể xem Hệ điều hành như là một hệ thống bao gồm nhiều máy tính trừu tượng xếp thành nhiều lớp chồng lên nhau, máy tính mức dưới phục vụ cho máy tính mức trên. Lớp trên cùng là giao diện trực quan nhất để chúng ta điều khiển.
Ngoài ra có thể chia chức năng của Hệ điều hành theo bốn chức năng sau:
Quản lý quá trình (process management)
Quản lý bộ nhớ (memory management)
Quản lý hệ thống lưu trữ
Giao tiếp với người dùng (user interaction)
Tài nguyên của hệ thống (CPU, bộ nhớ, thiết bị ngoại vi,...) vốn rất giới hạn, nhưng trong các hệ thống đa nhiệm, nhiều người sử dụng có thể đồng thời yêu cầu nhiều tài nguyên. Để thỏa mãn yêu cầu sử dụng chỉ với tài nguyên hữu hạn và nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, hệ điều hành cần phải có cơ chế và chiến lược thích hợp để quản lý việc phân phối tài nguyên.
Ngoài yêu cầu dùng chung tài nguyên để tiết kiệm chi phí, người sử dụng còn cần phải chia sẻ thông tin (tài nguyên phần mềm) lẫn nhau, khi đó hệ điều hành cần đảm bảo việc truy xuất đến các tài nguyên này là hợp lệ, không xảy ra tranh chấp, mất đồng nhất,...
[sửa] Giả lập một máy tính mở rộng
Hệ điều hành làm ẩn đi các chi tiết phần cứng, người sử dụng được cung cấp một giao diện đơn giản, dễ hiểu, dễ sử dụng và không phụ thuộc vào thiết bị phần cứng cụ thể.
Thực tế, ta có thể xem Hệ điều hành như là một hệ thống bao gồm nhiều máy tính trừu tượng xếp thành nhiều lớp chồng lên nhau, máy tính mức dưới phục vụ cho máy tính mức trên. Lớp trên cùng là giao diện trực quan nhất để chúng ta điều khiển.
Ngoài ra có thể chia chức năng của Hệ điều hành theo bốn chức năng sau:
Quản lý quá trình (process management)
Quản lý bộ nhớ (memory management)
Quản lý hệ thống lưu trữ
Giao tiếp với người dùng (user interaction)
PhamHuyHoang (I11C)- Tổng số bài gửi : 13
Join date : 27/08/2011
Mô hình Client-Server
Khuynh hướng của các hệ điều hành hiện đại là chuyển dần các đoạn mã của hệ thống lên những lớp cao hơn và bỏ dần các chức năng trong hạt nhân, chỉ còn lại một hạt nhân tối thiểu. Cách tiếp cận là cài đặt hầu hết những chức năng của hệ điều hành trong các xử lý của người sử dụng. Để yêu cầu một dịch vụ, như đọc một khối từ tập tin, một xử lỗi của người sử dụng (còn được gọi là tiến trình client) sẽ gửi những yêu cầu để cho một xử lỗi của bộ phận dịch vụ (còn được gọi là tiến trình server). Sau đó, nó sẽ thực hiện và gửi kết quả trở lại.
Trong mô hình này, chức năng của hạt nhân chỉ là kiểm soát quá trình thông tin giữa client và server. Bằng cách chia hệ điều hành thành những phần nhỏ, mỗi phần chỉ kiểm soát một mặt của hệ thống như các dịch vụ về tập tin, tiến trình, terminal, bộ nhớ, mỗi phần sẽ gọn hơn và dể quản lý hơn. Hơn nữa, tất cả server thực hiện như những tiến trình ở mức độ người dùng (user-mode) không phải ở mức độ hạt nhân (kernel-mode), nên nó không truy xuất trực tiếp phần cứng. Do đó, nếu server tập tin bị lỗi, các dịch vụ về tập tin có thể bị hỏng nhưng nó thường không gây ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống.
Một ưu điểm khác của mô hình client-server là nó có thể tương thích dể dàng với mô hình hệ thống phân tán. Nếu một client giao tiếp với một server bằng cách gửi những thông điệp, họ không biết là khi nào thông điệp đó đang được xử lý cục bộ tại máy hay được gửi vào mạng đến server trên một máy từ xa. Khi client quan tâm đến, một yêu cầu được gửi đi và một trả lời đáp ứng diễn ra như nhau.
Trong mô hình này, chức năng của hạt nhân chỉ là kiểm soát quá trình thông tin giữa client và server. Bằng cách chia hệ điều hành thành những phần nhỏ, mỗi phần chỉ kiểm soát một mặt của hệ thống như các dịch vụ về tập tin, tiến trình, terminal, bộ nhớ, mỗi phần sẽ gọn hơn và dể quản lý hơn. Hơn nữa, tất cả server thực hiện như những tiến trình ở mức độ người dùng (user-mode) không phải ở mức độ hạt nhân (kernel-mode), nên nó không truy xuất trực tiếp phần cứng. Do đó, nếu server tập tin bị lỗi, các dịch vụ về tập tin có thể bị hỏng nhưng nó thường không gây ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống.
Một ưu điểm khác của mô hình client-server là nó có thể tương thích dể dàng với mô hình hệ thống phân tán. Nếu một client giao tiếp với một server bằng cách gửi những thông điệp, họ không biết là khi nào thông điệp đó đang được xử lý cục bộ tại máy hay được gửi vào mạng đến server trên một máy từ xa. Khi client quan tâm đến, một yêu cầu được gửi đi và một trả lời đáp ứng diễn ra như nhau.
PhamHuyHoang (I11C)- Tổng số bài gửi : 13
Join date : 27/08/2011
Re: Thảo luận Bài 1
Thực ra hệ điều hành mở hay đóng không quan trọng, quan trọng là công sức bỏ ra cho nó mà thôi. Một ví dụ điển hình là Mac OS vốn xuất phát từ Unix/Linux và hiện nay rất là thành công với giao diện trực quan (có thể là không quen tay với ai đang dùng Windows nhưng dùng lâu sẽ thấy rất tốt). Tuy MAC OS khá là bảo thủ nhưng ta có thể thấy rằng hệ điều hành mã nguồn mở không hồ yếu kém mà chỉ chưa phát triển do chưa có một cơ chế quản lý phát triển tập trung mà thôi. Hiện nay Linux được cung cấp với rất nhiều phiên bản do các nhóm nhỏ tự hợp lại làm nên không có sự nhất quán và chuyên nghiệp như Windows. Tính thân thiện cũng chưa cao bằng Windows.NGUYENDINHNGHIA-I11C đã viết:BuiHoangTuan.131.I11C đã viết:TruongHanhPhuc (I11C) đã viết:LE DUY NHAT AN (I91C) đã viết:Mặc dù windows nhiều người sử dụng thiệt, nhưng mình cảm thấy 1 vài ý kiến của bạn ko đúng
bạn nói Giao diện không hấp dẫn, hiện tại Linux có giao diện thân thiện hơn rồi ko như bản server lúc xưa, có giao diện rất đẹp thậm chí theo đánh giá compiz-fusion của Linux hơn cả win 7, về cài đặt ứng dụng thì cũng ko cần gõ lệnh nua , ai pro thì có thể sài command nhưng không biết vẫn có thể cài đặt qua giao diện hỗ trợ rất đầy đủ và dễ hiểu.
Theo ý kiến riêng của mình nghĩ thật ra chỉ có việt nam mình và 1 vài nước thuộc khu vức Châu Á là sài đa phần windows chứ thật sự các nước phương tây người ta buộc phải sài mã nguồn mở, vì giá bản quyền quá mắc, nếu giả sử VN mình ko có các cracker ngoài nước thì liệu đến giờ mình co tiếp cần được windows không (đa phần các cracker đều là người nước ngoài, VN chỉ thông qua cách thức crack từ nước ngoài để crack sau này thôi)
Nhưng bạn nói đúng ở chỗ vì do đa phần tại Vn khi được tiếp xúc đầu tiền là nền tảng windows nên thói quen sài windows, cũng giống như người VN nói tiếng Việt giỏi nhưng tiếng Anh không giỏi, nhưng liệu điều này đúng không nếu 1 ngày VN áp dụng luật bản quyền chặt chẽ như nước ngoài thì các bạn có bỏ mấy trăm $ ra mua bản quyền không (đang nói cá nhân).
Cũng cảm ơn các bạn đã cho mình thêm thông tin.
Thực tế thì không phải giao diện của hệ điều hành mã nguồn mở không thân thiện mà là chưa thân thiện. Do đội ngũ lập trình viên không tập trung nên chưa có được sự thân thiện với người dùng mà thôi. Như giao diện trên một số máy điện thoại dùng Android của một số hãng (Sony, Samsung) rất thân thiện và dễ sử dụng. Bản thân hệ điều hành MAC cũng từ Unix-Linux mà ra đấy thôi.
Ý của các bạn LE DUY NHAT AN (I91C), và TruongHanhPhuc (I11C) rất thiết thật.
Là người dùng hay thay thích khám phá, các bạn thử một lần cài đặt ubuntu và dùng nó thay thế HĐH windows xem thế nào, các bạn sẽ thấy được sự so. Theo cảm nhận của tôi thì chưa đến lúc thay thế windows hoàn toàn theo nhiều góc độ. Nếu chúng ta đều là kỹ thuật viên thì mày mò khám phá một HĐH mới thật sự không khó, nhưng đối với một người dùng có tuổi, khả năng tiếp thu hạn chế thì đó là một vấn đều lớn. Điều này Microsoft đã làm được, tức là mức độ phổ biến lan tỏa, không phụ thuộc bất kỳ đối tượng sử dụng nào. Chính điều đó là đều tôi quan tâm nhất đối với một HĐH.
Các bạn nói linux khó dùng, gõ command, và hơi khó khăn cho trong công việc hằng ngày, cũng như học tập chưa hỗ trợ nhiều soft như windows... điều này MAC OS đã đang làm rất tốt, bằng cách đưa Apps lên đám mây. Đừng quên MAC OS cũng là một HĐH từ Unix giống như linux OS, Oracle Solaris OS... Apple làm thế đều có nguyên do cả, họ đang gầy dựng mức độ ảnh hưởng người dùng đào tẩu sang MAC OS đó các bạn ạh. Với giao diện thân thiện, hình ảnh cực đẹp, chi phí rẻ chỉ bằng 1/3,... khi mà apps nhiều lên rồi bạn sẽ có một kho ứng dụng free và crack nhiều đến mức bạn đã từng thấy trên windows vậy, ngày đó sẽ không còn xa.
Vài dòng chia sẻ quan niệm của mình hy vọng sẽ góp ý cho topic về HĐH.
Theo cá nhân mình thì mỗi hệ điều hành đều có điểm mạnh và yếu riêng, lúc còn xài windows xp sp2 thì vẫn chạy tốt và mượt đó tới khi chuyển qua xài thử windows 7 thì không ai muốn chuyển về xp vì giao diện đẹp và nhiều ứng dụng hỗ trợ người dùng khác..., trong mỗi chúng ta ai cũng từng muốn xài thử qua một hệ điều hành khác để cảm nhận nó như thế nào, thích khám quá cái mới mẻ của công nghệ , mỗi người đều có nhu cầu và sở thích với mỗi hệ điều hành, tôi thích xài windows một phần không phải là giao diện đẹp , nhiều ứng dụng mà là vì nó support user tốt , sắp tới cũng tính cài nâng cấp lên windows 8.
TruongHanhPhuc (I11C)- Tổng số bài gửi : 22
Join date : 25/08/2011
Re: Thảo luận Bài 1
Bây giờ công nghệ mã nguồn thường được mở ra. Có nhiều người sử dụng thì mới tìm ra ưu khuyết điểm và tìm cách khắc phục để phát triễn hơn. Như vậy việc công bố là có ý nghĩa mà!TranVuThuyVan_(I11C) đã viết:Cho minh hoi:
Tai sao My lai cong bo ma nguon cua cua He Dieu Hanh? lam nhu vay My khong so mat ban quyen sao?
NguyenCongVinh(102C)- Tổng số bài gửi : 26
Join date : 23/02/2011
Thêm một số ý ở phần Ưu và khuyết điểm
Ưu điểm mạng peer to peer:
- Do tính chất phân tán của mạng nên mạng vẫn hoạt động tốt khi một số máy gặp sự cố (Đối với cấu trúc tập trung, chỉ cần máy chủ gặp sự cố thì cả hệ thống sẽ ngưng trệ)
- Do trong mạng tất cả các máy tham gia đều đóng góp tài nguyên, bao gồm băng thông, lưu trữ, và khả năng tính toán. Nen khi càng có nhiều máy tham gia mạng thì khả năng tổng thể của hệ thống mạng càng lớn. (Trong cấu trúc máy chủ-máy khách, nếu số lượng máy chủ là cố định, thì khi số lượng máy khách tăng lên khả năng chuyển dữ liệu cho mỗi máy khách sẽ giảm xuống)
- Do tính chất phân tán của mạng nên mạng vẫn hoạt động tốt khi một số máy gặp sự cố (Đối với cấu trúc tập trung, chỉ cần máy chủ gặp sự cố thì cả hệ thống sẽ ngưng trệ)
- Do trong mạng tất cả các máy tham gia đều đóng góp tài nguyên, bao gồm băng thông, lưu trữ, và khả năng tính toán. Nen khi càng có nhiều máy tham gia mạng thì khả năng tổng thể của hệ thống mạng càng lớn. (Trong cấu trúc máy chủ-máy khách, nếu số lượng máy chủ là cố định, thì khi số lượng máy khách tăng lên khả năng chuyển dữ liệu cho mỗi máy khách sẽ giảm xuống)
TranMinhThuc_I11C- Tổng số bài gửi : 15
Join date : 16/09/2011
Re: Thảo luận Bài 1
BuiHoangTuan.131.I11C đã viết:TruongHanhPhuc (I11C) đã viết:File-server: là mô hình trong đó một máy tính có nhiệm vụ làm nơi lưu trữ dữ liệu, cho phép các máy tính trong cùng hệ thống mạng có thể lưu trữ và truy xuất file đang lưu trên đó. File-server giúp các máy tính trong cùng hệ thống mạng có thể chia sẻ file với nhau không cần thông qua các thiết bị lưu trữ tạm thời như USB, đĩa CD/DVD hay ổ cứng di động để truyền file. Trong một mô hình mạng đơn giản, File-server có thể chỉ là một máy tính bình thường đóng vai trò làm nơi chia sẻ file. Trong một hệ thống mạng phức tạp hơn, File-Server có thể là một thiết bị NAS (network-attached storage).
Client-server: là một mô hình được sử dụng rộng rãi trong mạng máy tính. Ý nghĩa của mô hình này là máy khách (Client) sẽ gửi yêu cầu đến máy chủ (Server), máy chủ sẽ xử lý và trả kết quả về cho máy khách. Những yêu cầu ở đây có thể là một trang web (Web-Server), Email (Mail-Server).... Mô hình Client-Server bao gồm cả File-Server vì nó hỗ trợ cả việc lưu trữ và chia sẻ file.
Tôi bổ sung thêm về một số ý cho rõ ở mô hình client-server như bạn trình bày.
Về mô hình client-server tỏ ra ưu thế vượt trội, được dùng rộng rãi trong các hệ thống máy tính như ngày nay và phát triển có rất nhiều lợi ích. Trong hệ thống mạng cục bộ (local) mô hình này giúp quản lý chặt chẽ phân quyền (VD: Active Directory của Windows hoặc Access Control List trong Solaris...). Ngoài ra, còn rất nhiều dịch vụ khác chẳng hạn như web services, mail, instant messenging, ... các dịch này hiện nay rất phổ biến.
Gần đây, các bạn thường nghe nhắc tới dịch vụ điện toán đám mây (Cloud Computing) nó cũng tương tự vậy.
Clients và Servers là các thiết bị thực hiện các chức năng đặc trưng trên mạng. Các thiết bị Client thông thường yêu cầu và nhận thông tin trên mạng. Các máy tính xách tay và hầu hết các máy tính bàn vận hành như các Client. Một thiết bị gọi là Server khi nó làm chủ các tập tin, làm chủ các cơ sở dữ liệu, các Web site hay các ứng dụng khác. Các thiết bị Server thường có bộ vi xử lý với tốc độ cao, có nhiều bộ nhớ, và đĩa cài đặt lớn hơn so với các Client.
Thuật ngữ Client/Server ngụ ý tới bất kỳ một mạng nào thiết kế sử dụng các Client và các Server. Web, FTP, email, DNS và nhiều ứng dụng cơ sở dữ liệu khác là các thiết kế theo kiểu Client/Server. Các mạng Client/Server có thể được xây dựng trên Internet, trong Intranet, hay tại nhà.
Sự khác biệt chính của mạng Client/Server so với mạng ngang hàng là, trong mạng ngang hàng (pear – to – pear) các thiết bị truyền thông trên mạng có vai trò như nhau, chúng vừa là thiết bị cung cấp tài nguyên cho mạng vừa là thiết bị sử dụng tài nguyên của mạng
nguyenthithutrang (I11C)- Tổng số bài gửi : 33
Join date : 26/08/2011
Age : 36
Đến từ : Lâm Đồng
Phân tích vai trò của hdh mã nguồn mở nói riêng và nói chung trong thực tế ứng dụng cntt của nc ta hiện nay?
Mình xin nêu lên những ý kiến của mình đối với câu hỏi này của thầy như sau:
Nói đến vai trò của hđh mã nguồn mở đối với 1 nước mới phát triển như nước ta chắc ai cũng biết cái đầu tiên chính là tính Kinh Tế, bạn không cần đóng bất kỳ 1 phí dịch vụ nào, không cần phải trả phí khi sử dụng. Những công cụ hổ trợ của nó cũng không kém phần như những hđh “đóng”. Và cấu hình của máy tính cài đặt hđh mã nguồn mở cũng không cần phải quá cao.
Nhưng có lẽ mình nên nói 1 điều hđh mã nguồn mỡ thực chất là con dao 2 lưỡi:
1. Hạn chế về tính năng
Vì sao lại hạn chế vì tính năng? Bạn cứ thử nghĩ xem có 1 công ty thứ 3 về phần mềm nào viết 1 cái soft để rồi “mở” cho ai muốn sai thì sai không? Nếu làm vậy thì họ lấy đâu ra tiền để trả cho nhân viên, để trả biết bao nhiêu là cái phí phát sinh. Những phần mêm hổ trợ cho hđh mã nguồn mở chẳng qua là do nhà cung cấp hđh dạng này cung cấp cho bạn thôi, hoặc nếu có 1 hãng thứ 3 đi chăng nữa thì cũng rất ít.
2. Thiếu tính sang tạo:
Tại sao mình lại nó là thiếu tính sang tạo? Các bạn phải công nhận với mình rằng là hđh mã nguồn mỡ bắt chước lại hầu hết những gì mà cái thằng đóng làm đc.
Điều này chắc những ai từng sài Ubutu với Windows chắc tự hiểu.
3.Bảo mật không đảm bảo:
Chắc ai cũng phải công nhận với mình điều này, 1 hđh mà cho phép người dung “đụng chạm” lung tung đến hệ thống của mình thì chắc chắn tính bảo mật không thể cao đc rồi.
4.Cái này mình cho là quan trọng “ Mã nguồn mỡ sẽ có ngày hết ….mỡ”.
Vì sao? Mình tin chắc nếu nó cứ mở hoài thì những người làm ra cái hđh đó chắc chắn phá sản.
Bạn thử nghĩ xem! Làm ra 1 cái phần mềm bạn có muốn bán để lây tiền không huống gì là cả 1 hđh. Nên mình tin chắc trong 1 tương lai không xa mã nguồn mỡ sẽ hết mở.
Mà hình như nghe đâu cũng có những hđh mode lại từ hđh linux quản tri mấy cái server cũng đã bắt đầu thi phí, nhưng “rất nhỏ”.
Nói túm lại: “mở” rất có lợi nếu chúng ta biết tận dụng nó vì nó mang tính free,nhưng nếu lạm dụng có ngày chết, đến luc nó hết “mở” thì tiền đâu mà trả.
Nói đến vai trò của hđh mã nguồn mở đối với 1 nước mới phát triển như nước ta chắc ai cũng biết cái đầu tiên chính là tính Kinh Tế, bạn không cần đóng bất kỳ 1 phí dịch vụ nào, không cần phải trả phí khi sử dụng. Những công cụ hổ trợ của nó cũng không kém phần như những hđh “đóng”. Và cấu hình của máy tính cài đặt hđh mã nguồn mở cũng không cần phải quá cao.
Nhưng có lẽ mình nên nói 1 điều hđh mã nguồn mỡ thực chất là con dao 2 lưỡi:
1. Hạn chế về tính năng
Vì sao lại hạn chế vì tính năng? Bạn cứ thử nghĩ xem có 1 công ty thứ 3 về phần mềm nào viết 1 cái soft để rồi “mở” cho ai muốn sai thì sai không? Nếu làm vậy thì họ lấy đâu ra tiền để trả cho nhân viên, để trả biết bao nhiêu là cái phí phát sinh. Những phần mêm hổ trợ cho hđh mã nguồn mở chẳng qua là do nhà cung cấp hđh dạng này cung cấp cho bạn thôi, hoặc nếu có 1 hãng thứ 3 đi chăng nữa thì cũng rất ít.
2. Thiếu tính sang tạo:
Tại sao mình lại nó là thiếu tính sang tạo? Các bạn phải công nhận với mình rằng là hđh mã nguồn mỡ bắt chước lại hầu hết những gì mà cái thằng đóng làm đc.
Điều này chắc những ai từng sài Ubutu với Windows chắc tự hiểu.
3.Bảo mật không đảm bảo:
Chắc ai cũng phải công nhận với mình điều này, 1 hđh mà cho phép người dung “đụng chạm” lung tung đến hệ thống của mình thì chắc chắn tính bảo mật không thể cao đc rồi.
4.Cái này mình cho là quan trọng “ Mã nguồn mỡ sẽ có ngày hết ….mỡ”.
Vì sao? Mình tin chắc nếu nó cứ mở hoài thì những người làm ra cái hđh đó chắc chắn phá sản.
Bạn thử nghĩ xem! Làm ra 1 cái phần mềm bạn có muốn bán để lây tiền không huống gì là cả 1 hđh. Nên mình tin chắc trong 1 tương lai không xa mã nguồn mỡ sẽ hết mở.
Mà hình như nghe đâu cũng có những hđh mode lại từ hđh linux quản tri mấy cái server cũng đã bắt đầu thi phí, nhưng “rất nhỏ”.
Nói túm lại: “mở” rất có lợi nếu chúng ta biết tận dụng nó vì nó mang tính free,nhưng nếu lạm dụng có ngày chết, đến luc nó hết “mở” thì tiền đâu mà trả.
HoangThanhChuong (I11C)- Tổng số bài gửi : 15
Join date : 25/08/2011
File Sever & Client Sever
Mình xin minh hoạ luôn bằng cái hình này:
Hệ thống «1C:DOANH NGHIỆP» làm việc theo 2 phương án sau:
• File-Server, khi mà cơ sở dữ liệu được lưu dưới dạng tệp trên đĩa cứng. Trong phương án này, trên cùng một cơ sở dữ liệu có thể làm việc cho 1 hoặc nhiều người sử dụng. Ưu điểm của phương án này là không cần thêm các phần mềm bổ sung ngoài Nền tảng «1C:DOANH NGHIỆP» và hệ điều hành, và như vậy, đơn giản hoá việc cài đặt và thiết lập hệ thống.
Sơ đồ làm việc của File-Server như sau:
• Client-Server, khi dữ liệu được lưu trữ ở cơ sở dữ liệu tại Server dưới sự điều hành của các hệ quản trị CSDL như: Oracle Database, MS SQL-Server, IBM DB2 hoặc Postgre SQL. Phiên bản «1C:DOANH NGHIỆP» mới làm việc trên cấu trúc 3 tầng, mà trong đó, phần Client không làm việc trực tiếp với cơ sở dữ liệu trên Server mà thực hiện thông qua Server «1C:DOANH NGHIỆP», tiếp theo đó, trong trường hợp cần thiết, Server «1C:DOANH NGHIỆP» mới kết nối với cơ sở dữ liệu của Server.
Sơ đồ chung của phương án Client-Server như sau:
Cầu trúc 3 tầng "Client-Server" làm tăng rộng giới hạn khả năng xử lý dữ liệu của «1C:DOANH NGHIỆP», cho phép giảm bớt thời gian xử lý dữ liệu trên các máy trạm (Client).
Trên thực tế, «1C:DOANH NGHIỆP» Server và hệ quản trị CSDL có thể cài đặt trên cùng một máy tính, hoặc trên các máy tính khác nhau. Điều này cho phép người quản trị hệ thống có thể tự phân bố các mức tải trên các máy Server.
Một điểm quan trọng nữa khi sử dụng cấu trúc 3 tầng là thuận tiện trong việc quản lý quyền hệ thống và phân bổ quyền của người sử dụng đối với cơ sở dữ liệu.
[img][/img]
Hệ thống «1C:DOANH NGHIỆP» làm việc theo 2 phương án sau:
• File-Server, khi mà cơ sở dữ liệu được lưu dưới dạng tệp trên đĩa cứng. Trong phương án này, trên cùng một cơ sở dữ liệu có thể làm việc cho 1 hoặc nhiều người sử dụng. Ưu điểm của phương án này là không cần thêm các phần mềm bổ sung ngoài Nền tảng «1C:DOANH NGHIỆP» và hệ điều hành, và như vậy, đơn giản hoá việc cài đặt và thiết lập hệ thống.
Sơ đồ làm việc của File-Server như sau:
• Client-Server, khi dữ liệu được lưu trữ ở cơ sở dữ liệu tại Server dưới sự điều hành của các hệ quản trị CSDL như: Oracle Database, MS SQL-Server, IBM DB2 hoặc Postgre SQL. Phiên bản «1C:DOANH NGHIỆP» mới làm việc trên cấu trúc 3 tầng, mà trong đó, phần Client không làm việc trực tiếp với cơ sở dữ liệu trên Server mà thực hiện thông qua Server «1C:DOANH NGHIỆP», tiếp theo đó, trong trường hợp cần thiết, Server «1C:DOANH NGHIỆP» mới kết nối với cơ sở dữ liệu của Server.
Sơ đồ chung của phương án Client-Server như sau:
Cầu trúc 3 tầng "Client-Server" làm tăng rộng giới hạn khả năng xử lý dữ liệu của «1C:DOANH NGHIỆP», cho phép giảm bớt thời gian xử lý dữ liệu trên các máy trạm (Client).
Trên thực tế, «1C:DOANH NGHIỆP» Server và hệ quản trị CSDL có thể cài đặt trên cùng một máy tính, hoặc trên các máy tính khác nhau. Điều này cho phép người quản trị hệ thống có thể tự phân bố các mức tải trên các máy Server.
Một điểm quan trọng nữa khi sử dụng cấu trúc 3 tầng là thuận tiện trong việc quản lý quyền hệ thống và phân bổ quyền của người sử dụng đối với cơ sở dữ liệu.
[img][/img]
HoangThiVe (I11C)- Tổng số bài gửi : 15
Join date : 25/08/2011
Age : 36
Mô hình client server
Mô hình client-server là một mô hình nổi tiếng trong mạng máy tính, được áp dụng rất rộng rãi và là mô hình của mọi trang web hiện có. Ý tưởng của mô hình này là máy con (đóng vài trò là máy khách) gửi một yêu cầu (request) để máy chủ (đóng vai trò người cung ứng dịch vụ), máy chủ sẽ xử lý và trả kết quả về cho máy khách.
Một mô hình ngược lại là mô hình master-slaver, trong đó máy chủ (đóng vai trò ông chủ) sẽ gửi dữ liệu đến máy con (đóng vai trò nô lệ) bất kể máy con có cần hay không.
Mô hình Web client/server :
Thuật ngữ server được dùng cho những chương trình thi hành như một dịch vụ trên toàn mạng. Các chương trình server này chấp nhận tất cả các yêu cầu hợp lệ đến từ mọi nơi trên mạng, sau đó nó thi hành dịch vụ và trả kết quả về máy yêu cầu. Một chương trình được coi là client khi nó gửi các yêu cầu tới máy có chương trình server và chờ đợi câu trả lời từ server. Chương trình server và client nói chuyện với nhau bằng các thông điệp (messages) thông qua một cổng truyền thông liên tác IPC (Interprocess Communication). Để một chương trình server và một chương trình client có thể giao tiếp được với nhau thì giữa chúng phải có một chuẩn để nói chuyện, chuẩn này được gọi là giao thức. Nếu một chương trình client nào đó muốn yêu cầu lấy thông tin từ server thì nó phải tuân theo giao thức mà server đó đưa ra. Bản thân chúng ta khi cần xây dựng một mô hình client/server cụ thể thì ta cũng có thể tự tạo ra một giao thức riêng nhưng thường chúng ta chỉ làm được điều này ở tầng ứng dụng của mạng. Với sự phát triển mạng như hiện này thì có rất nhiều giao thức chuẩn trên mạng ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển này. Các giao thức chuẩn (ở tầng mạng và vận chuyển) được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay như: giao thức TCP/IP, giao thức SNA của IBM, OSI, ISDN, X.25 hoặc giao thức LAN-to-LAN NetBIOS. Một máy tính chứa chương trình server được coi là một máy chủ hay máy phục vụ (server) và máy chứa chương trình client được coi là máy tớ (client). Mô hình mạng trên đó có các máy chủ và máy tớ giao tiếp với nhau theo 1 hoặc nhiều dịch vụ được gọi là mô hình client/server. Thực tế thì mô hình client/server là sự mở rộng tự nhiên và tiện lợi cho việc truyền thông liên tiến trình trên các máy tính cá nhân. Mô hình này cho phép xây dựng các chương trình client/server một cách dễ dàng và sử dụng chúng để liên tác với nhau để đạt hiệu quả hơn.
Mô hình client/server như sau: Client/Server là mô hình tổng quát nhất, trên thực tế thì một server có thể được nối tới nhiều server khác nhằm làm việc hiệu quả và nhanh hơn. Khi nhận được 1 yêu cầu từ client, server này có thể gửi tiếp yêu cầu vừa nhận được cho server khác ví dụ như database server vì bản thân nó không thể xử lý yêu cầu này được. Máy server có thể thi hành các nhiệm vụ đơn giản hoặc phức tạp. Ví dụ như một máy chủ trả lời thời gian hiện tại trong ngày, khi một máy client yêu cầu lấy thông tin về thời gian nó sẽ phải gửi một yêu cầu theo một tiêu chuẩn do server định ra, nếu yêu cầu được chấp nhận thì máy server sẽ trả về thông tin mà client yêu cầu. Có rất nhiều các dịch vụ server trên mạng nhưng nó đều hoạt động theo nguyên lý là nhận các yêu cầu từ client sau đó xử lý và trả kết quả cho client yêu cầu. Thông thường chương trình server và client được thi hành trên hai máy khác nhau. Cho dù lúc nào server cũng ở trạng thái sẵn sàng chờ nhận yêu cầu từ client nhưng trên thực tế một tiến trình liên tác qua lại (interaction) giữa client và server lại bắt đầu ở phía client, khi mà client gửi tín hiệu yêu cầu tới server. Các chương trình server thường đều thi hành ở mức ứng dụng (tầng ứng dụng của mạng). Sự thuận lợi của phương pháp này là nó có thể làm việc trên bất cứ một mạng máy tính nào có hỗ trợ giao thức truyền thông chuẩn cụ thể ở đây là giao thức TCP/IP. Với các giao thức chuẩn này cũng giúp cho các nhà sản xuất có thể tích hợp nhiều sản phẩm khác nhau của họ lên mạng mà không gặp phải khó khăn gì. Với các chuẩn này thì các chương trình server cho một dịch vụ nào đấy có thể thi hành trên một hệ thống chia sẻ thời gian (timesharing system) với nhiều chương trình và dịch vụ khác hoặc nó có thể chạy trên chính một máy tính các nhân bình thường. Có thể có nhiều chương server cùng làm một dịch vụ, chúng có thể nằm trên nhiều máy tính hoặc một máy tính. Với mô hình trên chúng ta nhận thấy rằng mô hình client/server chỉ mang đặc điểm của phần mềm không liên quan gì đến phần cứng mặc dù trên thực tế yêu cầu cho một máy server là cao hơn nhiều so với máy client. Lý do là bởi vì máy server phải quản lý rất nhiều các yêu cầu từ các clients khác nhau trên mạng. Ưu và nhược điểm chính Có thể nói rằng với mô hình client/server thì mọi thứ dường như đều nằm trên bàn của người sử dụng, nó có thể truy cập dữ liệu từ xa (bao gồm các công việc như gửi và nhận file, tìm kiếm thông tin, ...) với nhiều dịch vụ đa dạng mà mô hình cũ không thể làm được. Mô hình client/server cung cấp một nền tảng lý tưởng cho phép tích hợp các kỹ thuật hiện đại như mô hình thiết kế hướng đối tượng, hệ chuyên gia, hệ thông tin địa lý (GIS) ... Một trong những vấn đề nảy sinh trong mô hình này đó là tính an toàn và bảo mật thông tin trên mạng. Do phải trao đổi dữ liệu giữa 2 máy ở 2 khu vực khác nhau cho nên dễ dàng xảy ra hiện tượng thông tin truyền trên mạng bị lộ.
1. Client Trong mô hình client/server, người ta còn định nghĩa cụ thể cho một máy client là một máy trạm mà chỉ được sử dụng bởi 1 người dùng với để muốn thể hiện tính độc lập cho nó. Máy client có thể sử dụng các hệ điều hành bình thường như Win9x, DOS, OS/2... Bản thân mỗi một client cũng đã được tích hợp nhiều chức năng trên hệ điều hành mà nó chạy, nhưng khi được nối vào một mạng LAN, WAN theo mô hình client/server thì nó còn có thể sử dụng thêm các chức năng do hệ điều hành mạng (NOS) cung cấp với nhiều dịch vụ khác nhau (cụ thể là các dịch vụ do các server trên mạng này cung cấp), ví dụ như nó có thể yêu cầu lấy dữ liệu từ một server hay gửi dữ liệu lên server đó... Thực tế trong các ứng dụng của mô hình client/server, các chức năng hoạt động chính là sự kết hợp giữa client và server với sự chia sẻ tài nguyên, dữ liệu trên cả 2 máy Vai trò của client Trong mô hình client/server, client được coi như là người sử dụng các dịch vụ trên mạng do một hoặc nhiều máy chủ cung cấp và server được coi như là người cung cấp dịch vụ để trả lời các yêu cầu của các clients. Điều quan trọng là phải hiểu được vai trò hoạt động của nó trong một mô hình cụ thể, một máy client trong mô hình này lại có thể là server trong một mô hình khác. Ví dụ cụ thể như một máy trạm làm việc như một client bình thường trong mạng LAN nhưng đồng thời nó có thể đóng vai trò như một máy in chủ (printer server) cung cấp dịch vụ in ấn từ xa cho nhiều người khác (clients) sử dụng. Client được hiểu như là bề nổi của các dịch vụ trên mạng, nếu có thông tin vào hoặc ra thì chúng sẽ được hiển thị trên máy client.
2. Server Server còn được định nghĩa như là một máy tính nhiều người sử dụng (multiuser computer). Vì một server phải quản lý nhiều yêu cầu từ các client trên mạng cho nên nó hoạt động sẽ tốt hơn nếu hệ điều hành của nó là đa nhiệm với các tính năng hoạt động độc lập song song với nhau như hệ điều hành UNIX, WINDOWS... Server cung cấp và điều khiển các tiến trình truy cập vào tài nguyên của hệ thống. Các ứng dụng chạy trên server phải được tách rời nhau để một lỗi của ứng dụng này không làm hỏng ứng dụng khác. Tính đa nhiệm đảm bảo một tiến trình không sử dụng toàn bộ tài nguyên hệ thống. Vai trò của server. Như chúng ta đã bàn ở trên, server như là một nhà cung cấp dịch vụ cho các clients yêu cầu tới khi cần, các dịch vụ như cơ sở dữ liệu, in ấn, truyền file, hệ thống... Các ứng dụng server cung cấp các dịch vụ mang tính chức năng để hỗ trợ cho các hoạt động trên các máy clients có hiệu quả hơn. Sự hỗ trợ của các dịch vụ này có thể là toàn bộ hoặc chỉ một phần thông qua IPC. Để đảm bảo tính an toàn trên mạng cho nên server này còn có vai trò như là một nhà quản lý toàn bộ quyền truy cập dữ liệu của các máy clients, nói cách khác đó là vai trò quản trị mạng. Có rất nhiều cách thức hiện nay nhằm quản trị có hiệu quả, một trong những cách đang được sử dụng đó là dùng tên Login và mật khẩu
Một mô hình ngược lại là mô hình master-slaver, trong đó máy chủ (đóng vai trò ông chủ) sẽ gửi dữ liệu đến máy con (đóng vai trò nô lệ) bất kể máy con có cần hay không.
Mô hình Web client/server :
Thuật ngữ server được dùng cho những chương trình thi hành như một dịch vụ trên toàn mạng. Các chương trình server này chấp nhận tất cả các yêu cầu hợp lệ đến từ mọi nơi trên mạng, sau đó nó thi hành dịch vụ và trả kết quả về máy yêu cầu. Một chương trình được coi là client khi nó gửi các yêu cầu tới máy có chương trình server và chờ đợi câu trả lời từ server. Chương trình server và client nói chuyện với nhau bằng các thông điệp (messages) thông qua một cổng truyền thông liên tác IPC (Interprocess Communication). Để một chương trình server và một chương trình client có thể giao tiếp được với nhau thì giữa chúng phải có một chuẩn để nói chuyện, chuẩn này được gọi là giao thức. Nếu một chương trình client nào đó muốn yêu cầu lấy thông tin từ server thì nó phải tuân theo giao thức mà server đó đưa ra. Bản thân chúng ta khi cần xây dựng một mô hình client/server cụ thể thì ta cũng có thể tự tạo ra một giao thức riêng nhưng thường chúng ta chỉ làm được điều này ở tầng ứng dụng của mạng. Với sự phát triển mạng như hiện này thì có rất nhiều giao thức chuẩn trên mạng ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển này. Các giao thức chuẩn (ở tầng mạng và vận chuyển) được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay như: giao thức TCP/IP, giao thức SNA của IBM, OSI, ISDN, X.25 hoặc giao thức LAN-to-LAN NetBIOS. Một máy tính chứa chương trình server được coi là một máy chủ hay máy phục vụ (server) và máy chứa chương trình client được coi là máy tớ (client). Mô hình mạng trên đó có các máy chủ và máy tớ giao tiếp với nhau theo 1 hoặc nhiều dịch vụ được gọi là mô hình client/server. Thực tế thì mô hình client/server là sự mở rộng tự nhiên và tiện lợi cho việc truyền thông liên tiến trình trên các máy tính cá nhân. Mô hình này cho phép xây dựng các chương trình client/server một cách dễ dàng và sử dụng chúng để liên tác với nhau để đạt hiệu quả hơn.
Mô hình client/server như sau: Client/Server là mô hình tổng quát nhất, trên thực tế thì một server có thể được nối tới nhiều server khác nhằm làm việc hiệu quả và nhanh hơn. Khi nhận được 1 yêu cầu từ client, server này có thể gửi tiếp yêu cầu vừa nhận được cho server khác ví dụ như database server vì bản thân nó không thể xử lý yêu cầu này được. Máy server có thể thi hành các nhiệm vụ đơn giản hoặc phức tạp. Ví dụ như một máy chủ trả lời thời gian hiện tại trong ngày, khi một máy client yêu cầu lấy thông tin về thời gian nó sẽ phải gửi một yêu cầu theo một tiêu chuẩn do server định ra, nếu yêu cầu được chấp nhận thì máy server sẽ trả về thông tin mà client yêu cầu. Có rất nhiều các dịch vụ server trên mạng nhưng nó đều hoạt động theo nguyên lý là nhận các yêu cầu từ client sau đó xử lý và trả kết quả cho client yêu cầu. Thông thường chương trình server và client được thi hành trên hai máy khác nhau. Cho dù lúc nào server cũng ở trạng thái sẵn sàng chờ nhận yêu cầu từ client nhưng trên thực tế một tiến trình liên tác qua lại (interaction) giữa client và server lại bắt đầu ở phía client, khi mà client gửi tín hiệu yêu cầu tới server. Các chương trình server thường đều thi hành ở mức ứng dụng (tầng ứng dụng của mạng). Sự thuận lợi của phương pháp này là nó có thể làm việc trên bất cứ một mạng máy tính nào có hỗ trợ giao thức truyền thông chuẩn cụ thể ở đây là giao thức TCP/IP. Với các giao thức chuẩn này cũng giúp cho các nhà sản xuất có thể tích hợp nhiều sản phẩm khác nhau của họ lên mạng mà không gặp phải khó khăn gì. Với các chuẩn này thì các chương trình server cho một dịch vụ nào đấy có thể thi hành trên một hệ thống chia sẻ thời gian (timesharing system) với nhiều chương trình và dịch vụ khác hoặc nó có thể chạy trên chính một máy tính các nhân bình thường. Có thể có nhiều chương server cùng làm một dịch vụ, chúng có thể nằm trên nhiều máy tính hoặc một máy tính. Với mô hình trên chúng ta nhận thấy rằng mô hình client/server chỉ mang đặc điểm của phần mềm không liên quan gì đến phần cứng mặc dù trên thực tế yêu cầu cho một máy server là cao hơn nhiều so với máy client. Lý do là bởi vì máy server phải quản lý rất nhiều các yêu cầu từ các clients khác nhau trên mạng. Ưu và nhược điểm chính Có thể nói rằng với mô hình client/server thì mọi thứ dường như đều nằm trên bàn của người sử dụng, nó có thể truy cập dữ liệu từ xa (bao gồm các công việc như gửi và nhận file, tìm kiếm thông tin, ...) với nhiều dịch vụ đa dạng mà mô hình cũ không thể làm được. Mô hình client/server cung cấp một nền tảng lý tưởng cho phép tích hợp các kỹ thuật hiện đại như mô hình thiết kế hướng đối tượng, hệ chuyên gia, hệ thông tin địa lý (GIS) ... Một trong những vấn đề nảy sinh trong mô hình này đó là tính an toàn và bảo mật thông tin trên mạng. Do phải trao đổi dữ liệu giữa 2 máy ở 2 khu vực khác nhau cho nên dễ dàng xảy ra hiện tượng thông tin truyền trên mạng bị lộ.
1. Client Trong mô hình client/server, người ta còn định nghĩa cụ thể cho một máy client là một máy trạm mà chỉ được sử dụng bởi 1 người dùng với để muốn thể hiện tính độc lập cho nó. Máy client có thể sử dụng các hệ điều hành bình thường như Win9x, DOS, OS/2... Bản thân mỗi một client cũng đã được tích hợp nhiều chức năng trên hệ điều hành mà nó chạy, nhưng khi được nối vào một mạng LAN, WAN theo mô hình client/server thì nó còn có thể sử dụng thêm các chức năng do hệ điều hành mạng (NOS) cung cấp với nhiều dịch vụ khác nhau (cụ thể là các dịch vụ do các server trên mạng này cung cấp), ví dụ như nó có thể yêu cầu lấy dữ liệu từ một server hay gửi dữ liệu lên server đó... Thực tế trong các ứng dụng của mô hình client/server, các chức năng hoạt động chính là sự kết hợp giữa client và server với sự chia sẻ tài nguyên, dữ liệu trên cả 2 máy Vai trò của client Trong mô hình client/server, client được coi như là người sử dụng các dịch vụ trên mạng do một hoặc nhiều máy chủ cung cấp và server được coi như là người cung cấp dịch vụ để trả lời các yêu cầu của các clients. Điều quan trọng là phải hiểu được vai trò hoạt động của nó trong một mô hình cụ thể, một máy client trong mô hình này lại có thể là server trong một mô hình khác. Ví dụ cụ thể như một máy trạm làm việc như một client bình thường trong mạng LAN nhưng đồng thời nó có thể đóng vai trò như một máy in chủ (printer server) cung cấp dịch vụ in ấn từ xa cho nhiều người khác (clients) sử dụng. Client được hiểu như là bề nổi của các dịch vụ trên mạng, nếu có thông tin vào hoặc ra thì chúng sẽ được hiển thị trên máy client.
2. Server Server còn được định nghĩa như là một máy tính nhiều người sử dụng (multiuser computer). Vì một server phải quản lý nhiều yêu cầu từ các client trên mạng cho nên nó hoạt động sẽ tốt hơn nếu hệ điều hành của nó là đa nhiệm với các tính năng hoạt động độc lập song song với nhau như hệ điều hành UNIX, WINDOWS... Server cung cấp và điều khiển các tiến trình truy cập vào tài nguyên của hệ thống. Các ứng dụng chạy trên server phải được tách rời nhau để một lỗi của ứng dụng này không làm hỏng ứng dụng khác. Tính đa nhiệm đảm bảo một tiến trình không sử dụng toàn bộ tài nguyên hệ thống. Vai trò của server. Như chúng ta đã bàn ở trên, server như là một nhà cung cấp dịch vụ cho các clients yêu cầu tới khi cần, các dịch vụ như cơ sở dữ liệu, in ấn, truyền file, hệ thống... Các ứng dụng server cung cấp các dịch vụ mang tính chức năng để hỗ trợ cho các hoạt động trên các máy clients có hiệu quả hơn. Sự hỗ trợ của các dịch vụ này có thể là toàn bộ hoặc chỉ một phần thông qua IPC. Để đảm bảo tính an toàn trên mạng cho nên server này còn có vai trò như là một nhà quản lý toàn bộ quyền truy cập dữ liệu của các máy clients, nói cách khác đó là vai trò quản trị mạng. Có rất nhiều cách thức hiện nay nhằm quản trị có hiệu quả, một trong những cách đang được sử dụng đó là dùng tên Login và mật khẩu
Nguyenminhduc (I11C)- Tổng số bài gửi : 18
Join date : 07/09/2011
Trang 5 trong tổng số 7 trang • 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7
Trang 5 trong tổng số 7 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết