Thảo luận Bài 1
+75
lakhaiphat-i11c
NgoDucTuan (I11C)
LyHuynhThanhYen (I11C)
minhgiangbc
PhamAnhKhoa(I11C)
dangminhthinh2107
lamhuubinh(I91C)
LeMinhDuc (I11C)
ThanhThao04(I11C)
HuynhVanNhut (I11C)
nguyenvanlinheban (I11C)
leanhhuy (I11C)
Nguyenminhduc (I11C)
HoangThiVe (I11C)
HoangThanhChuong (I11C)
nguyenthithutrang (I11C)
TranMinhThuc_I11C
NguyenCongVinh(102C)
PhamHuyHoang (I11C)
DangNgocMinh(I11C)
doanhongdao030(I11C)
hongthuanphong (I11C)
LUUDINHTOAN(I11C)
luuphuvinh1985
LeTanDat (I11C)
tranvanhai_21(I11c)
NguyenThiThanhThuy(I11C)
chauchanduong (I11C)
nguyen huynh nhu (102C)
NguyenTienPhong083 (I11C)
NgoMinhTien20 (I11C)
BuiMinhThong_110(I11C)
LeThiThuyDuong (I11C)
NguyenDoTu (I11C)
DaoVanHoang (I11C)
nguyenquoctruong (I11C)
truongsi93(I11C)
tranleanhngoc88(i11c)
n.t.tuyet.trinh90 (I11C)
TranTrungTinh(I11C)
NguyenVietThuan11
chauthanhvy146(I11C)
buithithudung24 (i11c)
HoangNgocQuynh(I11C)
nguyenthingocloan (I11C)
ToThiThuyTrang (I11C)
phamdieptuan (I11C)
vohongcong(I111C)
DuongTrungTinh(I11C)
nguyenvulinh_i11c
phamngoctan095 (I11C)
ledinhngankhanh (i11c)
TangHuynhThanhThanh I11C
phuongnt.i11c
NguyenHaThanh97 (I11C)
nguyenhoangthinh (I11C)
BuiVanHoc(I11C)
TranVanDucHieu I11c
TranMinhMan (I11C)
TranVuThuyVan_(I11C)
PhamThanhHoang31(I11C)
TruongThiThuyPhi(I11C)
LE DUY NHAT AN (I91C)
Nguyễn Hoàng Kiếm I91C
DuongKimLong(I111C)
lequocthinh (I11C)
BuiHoangTuan.131.I11C
nguyenminhlai.(I11C)
NguyenQuocThanh (I11C)
nguyenkylong (i11c)
NGUYENDINHNGHIA-I11C
tranvantoan83(I11c)
TranMinh (I11C)
TruongHanhPhuc (I11C)
Admin
79 posters
Trang 6 trong tổng số 7 trang
Trang 6 trong tổng số 7 trang • 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7
Re: Thảo luận Bài 1
Các tầng của hệ điều hành có bạn nêu 6 tầng. mình có thấy một nguồn trên mạng có 5 tầng thế này không biết có chính xác không ? Bạn nào biết giải thích giúp mình. xin cảm ơn.
- Tầng trên cùng ( application)
- Tầng Command Processor
- Tầng Logical Services: Tầng nhập xuất.
- Tầng physical.
- Hạt nhân
- Tầng trên cùng ( application)
- Tầng Command Processor
- Tầng Logical Services: Tầng nhập xuất.
- Tầng physical.
- Hạt nhân
lequocthinh (I11C)- Tổng số bài gửi : 17
Join date : 26/08/2011
Re: Thảo luận Bài 1
Hệ Điều Hành Mạng hay còn gọi là NOS. NOS: cung cấp các phục vụ về mạng như dùng chung tệp, máy in, quản lý tài khoản người dùng .... Nếu máy trạm dựa vào các dịch vụ được cung cấp bởi máy chủ, một NOS được thiết kế tốt sẽ cung cấp cơ chế bảo vệ cũng như khả năng đa nhiệm điều này giúp tránh được các lỗi đáng tiếc xảy ra. Xét về mặt kỹ thuật thì sự khác nhau giữa máy trạm và máy chủ phụ thuộc vào phần mềm được cài đặt trên đó.Nguyễn Hoàng Kiếm I91C đã viết:Chào Thầy và các bạn cho em hỏi tí hệ điều hành mạng là sau em chưa rỏ lắm. Trân trọng kính chào.
nguyenthithutrang (I11C)- Tổng số bài gửi : 33
Join date : 26/08/2011
Age : 36
Đến từ : Lâm Đồng
Re: Thảo luận Bài 1
Hệ thống máy tính có thể được phân thành 6 tầng như sau:lequocthinh (I11C) đã viết:Các tầng của hệ điều hành có bạn nêu 6 tầng. mình có thấy một nguồn trên mạng có 5 tầng thế này không biết có chính xác không ? Bạn nào biết giải thích giúp mình. xin cảm ơn.
- Tầng trên cùng ( application)
- Tầng Command Processor
- Tầng Logical Services: Tầng nhập xuất.
- Tầng physical.
- Hạt nhân
- Tầng ứng dụng (Applications)
- Tầng các tiện ích (các bộ biên dịch (Compiler), các bộ soạn thảo (Editor), các bộ thông dịch (Interpreter),…)
- Tầng Hệ điều hành
- Tầng ngôn ngữ máy
- Tầng các vi chương trình
- Tầng các thiết bị vật lý
- Tầng vật lý (tầng 0): Chứa các thiết bị vật lý bao gồm các vỉ mạch, chíp, nguồn
điện, mạch điện v..v. Tầng này làm nhiệm vụ vận chuyển tín hiệu (dữ liệu) vào ra
hệ thống.
- Tầng các vi chương trình (tầng 01): Chứa các vi chương trình sơ khai điều khiển
trực tiếp các thành phần vật lý ở tầng 0 và tạo giao diện với tầng trên (tầng 2). Các
vi chương trình thường chứa trong ROM, thực chất đây là bộ dịch, nhận các lệnh
máy và thực hiện chúng tuần tự theo từng bước.
- Tầng ngôn ngữ máy (tầng 2): Ngôn ngữ máy thường có 50-300 lệnh máy, số
lệnh máy phụ thuộc vào các kiến trúc máy tính. Các lệnh máy chủ yếu dùng để di
Chuyển dữ liệu, thực hiện các phép toán số học, logic và so sánh giá trị.
Tầng Hệ điều hành (tầng 3): Chức năng của Hệ điều hành là che kín sự phức tạpcủa tầng dưới, tổ chức thực hiện chương trình và cung cấp tập lệnh và giao diện để người sử dụng khai thác hệ thống. - Tầng các tiện ích (tầng 4): Tầng này chứa các tiện ích hỗ trợ người sử dụng khai thác hệ thống có hiệu quả. Trên tầng này chứa các lệnh thông dịch, các bộ biên dịch, các bộ thông dịch và lớp các chương trình ứng dụng độc lập, các chương trình này không phải là một phần của hệ điều hành mặc dầu vậy chúng được các hẵng máy tính sử dụng (như các tiện ích)- Tầng các chương trình ứng dụng (tầng 5): Tầng này bao gồm các chương trình do ngườI sử dụng viết để giải quyết các vấn đề cụ thể của mình, ví dụ như: xử lý số liệu kế toán, thương mại, các tính toán kỹ thuật và khoa học, các trò chơi v..v.
Ở đây người ta tính từ tầng 0 lên tầng 5.Chứ không phải 5 tầng đâu bạn ạ.
nguyenthithutrang (I11C)- Tổng số bài gửi : 33
Join date : 26/08/2011
Age : 36
Đến từ : Lâm Đồng
Re: Thảo luận Bài 1
nguyenthithutrang (I11C) đã viết:Hệ thống máy tính có thể được phân thành 6 tầng như sau:lequocthinh (I11C) đã viết:Các tầng của hệ điều hành có bạn nêu 6 tầng. mình có thấy một nguồn trên mạng có 5 tầng thế này không biết có chính xác không ? Bạn nào biết giải thích giúp mình. xin cảm ơn.
- Tầng trên cùng ( application)
- Tầng Command Processor
- Tầng Logical Services: Tầng nhập xuất.
- Tầng physical.
- Hạt nhân
- Tầng ứng dụng (Applications)
- Tầng các tiện ích (các bộ biên dịch (Compiler), các bộ soạn thảo (Editor), các bộ thông dịch (Interpreter),…)
- Tầng Hệ điều hành
- Tầng ngôn ngữ máy
- Tầng các vi chương trình
- Tầng các thiết bị vật lý
- Tầng vật lý (tầng 0): Chứa các thiết bị vật lý bao gồm các vỉ mạch, chíp, nguồn
điện, mạch điện v..v. Tầng này làm nhiệm vụ vận chuyển tín hiệu (dữ liệu) vào ra
hệ thống.
- Tầng các vi chương trình (tầng 01): Chứa các vi chương trình sơ khai điều khiển
trực tiếp các thành phần vật lý ở tầng 0 và tạo giao diện với tầng trên (tầng 2). Các
vi chương trình thường chứa trong ROM, thực chất đây là bộ dịch, nhận các lệnh
máy và thực hiện chúng tuần tự theo từng bước.
- Tầng ngôn ngữ máy (tầng 2): Ngôn ngữ máy thường có 50-300 lệnh máy, số
lệnh máy phụ thuộc vào các kiến trúc máy tính. Các lệnh máy chủ yếu dùng để di
Chuyển dữ liệu, thực hiện các phép toán số học, logic và so sánh giá trị.
Tầng Hệ điều hành (tầng 3): Chức năng của Hệ điều hành là che kín sự phức tạpcủa tầng dưới, tổ chức thực hiện chương trình và cung cấp tập lệnh và giao diện để người sử dụng khai thác hệ thống. - Tầng các tiện ích (tầng 4): Tầng này chứa các tiện ích hỗ trợ người sử dụng khai thác hệ thống có hiệu quả. Trên tầng này chứa các lệnh thông dịch, các bộ biên dịch, các bộ thông dịch và lớp các chương trình ứng dụng độc lập, các chương trình này không phải là một phần của hệ điều hành mặc dầu vậy chúng được các hẵng máy tính sử dụng (như các tiện ích)- Tầng các chương trình ứng dụng (tầng 5): Tầng này bao gồm các chương trình do ngườI sử dụng viết để giải quyết các vấn đề cụ thể của mình, ví dụ như: xử lý số liệu kế toán, thương mại, các tính toán kỹ thuật và khoa học, các trò chơi v..v.
Ở đây người ta tính từ tầng 0 lên tầng 5.Chứ không phải 5 tầng đâu bạn ạ.
Cảm ơn bạn rất nhiều
lequocthinh (I11C)- Tổng số bài gửi : 17
Join date : 26/08/2011
Các tính năng mới của iOS 5
Cập nhật lockscreen
Chào mừng các bạn màn hình mới khi bạn bắt đầu sử dụng điện thoại cho lần đầu tiên.
PC miễn phí kích hoạt.
Thông báo Trung tâm
Máy ảnh khởi động nhanh từ lockscreen
Cổ phiếu và thời tiết xây dựng thành Trung tâm Thông báo
ứng dụng iPod được đổi tên thành âm nhạc với biểu tượng mới.
New Videos.app
iMessage
SMS bong bóng màu xanh lá cây trong màu sắc và iMessage xuất hiện bé màu xanh.
Sạp báo cho Tạp chí và báo
Khả năng Tạo và xóa các album ảnh.
Tích hợp hệ thống rộng Twitter.
Twitter bàn phím với các nút # và @.
Khả năng chỉnh sửa ảnh
Hệ thống lưới điện trong Máy ảnh
Làm tròn các nút mới
Thông báo Trung tâm có khả năng sắp xếp các thông báo bằng cách "thủ công" hoặc theo thời gian.
Bạn có thể chọn những ứng dụng được bao gồm trong Trung tâm Thông báo
Khả năng để đổi tên điện thoại của bạn trong các thiết lập.
Trong bản cập nhật phần mềm không Delta
Màn hình sử dụng hiện nay cho thấy có bao nhiêu bộ nhớ được tiêu thụ bởi mỗi ứng dụng.
ITunes Sync không dây
Bạn có thể kích hoạt hoặc vô hiệu hóa Quay số giọng nói trong khi điện thoại bị khóa trong Security Settings
Khả năng để thêm các phím tắt bàn phím. Mặc định "omw" mở rộng "Trên đường đi của tôi!" Khi bạn gõ bất cứ nơi nào.
New Nói chuyện tùy chọn lựa chọn trong Cài đặt Khả năng tiếp cận
Khả năng để thêm rung động tùy chỉnh
Cài đặt cảm ứng trợ giúp mới
Flash LED cho Cảnh báo
Khả năng Thiết lập lại hoặc phải cho Mono Audio
ICloud tùy chọn trong Cài đặt ứng dụng
Bạn có thể tạo địa chỉ email additional@me.com trong các thiết lập Thư
Khả năng tăng Cấp Trích dẫn trong Cài đặt Mail
Twitter hội nhập vào địa chỉ liên lạc
Bạn có thể chỉnh sửa số của bạn trong Cài đặt.
FaceTime tùy chọn trong cửa sổ Settings. Bạn cũng có thể thiết lập ID người gọi FaceTime của bạn sẽ được email của bạn hoặc số điện thoại của bạn
Tùy chọn Private Browsing trong Safari
Khả năng loại bỏ các dữ liệu trang web tùy chỉnh
Khả năng để chuyển đổi iMessage ON hoặc OFF trong cài đặt.
Khả năng cho phép đọc Biên lai
iMessage gửi như tin nhắn SMS khi iMessage không có sẵn
Bây giờ bạn có thể thiết lập bao nhiêu thời gian một cảnh báo tin nhắn đã được hiển thị một lần nữa nếu bạn không trả lời điện thoại khi nó thông báo cho một tin nhắn mới.
Thiết lập riêng biệt cho âm nhạc và Video
Ảnh Suối
Bạn có thể thiết lập tài khoản mặc định cho các ghi chú được đồng bộ hóa trong các tùy chọn Ghi chú
Chuyển đổi ON hoặc OFF cho tải tự động.
Thiết lập để sử dụng tải tự động khi thiết bị được kết nối với WiFi
Tuyến đường thay thế trong Maps
Mua Lịch sử trong App Store.
Cá nhân xóa các mục từ lịch sử cuộc gọi.
iCloud Sao lưu
Chụp ảnh bằng cách sử dụng nút Khối lượng
Nếu bạn bấm và giữ trên một tên bài hát trong Music.app, popup cho thấy tất cả các chi tiết.
Khả năng để kéo địa chỉ email 'giữa các trường trong khi gửi một email trong Mail.app
Mail thông báo cho bạn trước khi gửi một email nếu bạn đã quên đặt một dòng tiêu đề.
Nhỏ các biểu tượng mới và cập nhật vào Mail cho Windows Live Mail, Gmail, Exchange.
Chỉnh sửa Rich Text trong thư
System Wide Từ điển
Hỗ trợ in ấn trong Maps
Khả năng để ẩn giao thông trong Maps
Bạn có thể thiết lập tùy chỉnh nhạc chuông rung liên lạc với nhau, vì vậy khi nó rung động trong một mô hình cụ thể mà bạn biết ai đang gọi.
Notes.app cho thấy số lượng các ghi chú được thực hiện trên tiêu đề
New Tìm hiểu Liên kết trên các ứng dụng cài đặt để được trợ giúp
Các hình ảnh trong Trung tâm game
Khả năng để làm cho hồ sơ của bạn công cộng và tư nhân trên Game Center
Điểm Game Center, cho bạn thấy bao nhiêu điểm bạn có trên màn hình chủ của trung tâm trò chơi
Sắp xếp và Xem bạn bè trên cơ sở các điểm.
Khuyến nghị bạn bè trong Game Center
Trò chơi mới được tải về thông qua Game Center
Khuyến nghị trò chơi trong Game Center
Màn hình yêu cầu bạn bè mới
Ứng dụng giọng nói bản ghi nhớ quay trong tất cả các hướng, bao gồm cả đảo lộn.
Đặt chuông văn bản tùy chỉnh cho liên lạc với nhau.
Thời tiết ở địa phương ứng dụng Thời tiết
Danh hàng giờ thời tiết
Đọc danh sách trong Safari
Duyệt web theo thẻ trong Safari trên iPad
Đọc những loại bỏ tất cả các lộn xộn từ các trang web trên iPad
Chia Bàn phím trên iPad
AirPlay Mirroring
Bạn có thể sử dụng điện thoại của bạn trong khi đồng bộ hóa với iTunes.
Emoji Hỗ trợ
Tweet hình ảnh và các liên kết từ iOS
Khi bạn cảnh quan điện thoại của bạn trong iCal, nó mang lại cho bạn một cái nhìn tuần.
New Music App trong iPad
iCloud Sync tài liệu và sao lưu
FadeOut nhẹ trên bên phải của thanh địa chỉ trình duyệt Safari.
Đọc danh sách hỗ trợ trên Safari
Vị trí Nhắc nhở Dựa
Lịch bây giờ cho phép bạn điều hướng từ ngày này sang ngày khác bằng cách sang.
Khi bạn đang ở chế độ camera, hãy xoay sang trái để lộ ra hình ảnh gần đây nhất. Swipe phải quay trở lại máy ảnh.
Watermark trong hộp nhập văn bản nói rằng "iMessage" hoặc "tin nhắn văn bản" cho phù hợp
Cảnh báo các cuộc gọi không có bảo đảm cho phép người dùng biết nếu họ đang nói chuyện trên không được mã hóa mạng lưới
Nhóm Tin nhắn trong iMessage.
Gửi ảnh, video bằng cách sử dụng iMessage.
Khả năng sử dụng nhiều ID của Apple cho các mục đích khác nhau. (Điều này đã được một trong những câu hỏi được hỏi)
Khi một thông báo trên lockscreen, hãy kéo nó để mở các ứng dụng cụ thể.
Swipe trên thời tiết sang trái hoặc phải vào Trung tâm Thông báo thả xuống để xem dự báo ngày.
Đa nhiệm Gestures trong iPad. Sử dụng bốn hoặc năm ngón tay, hãy kéo mạnh lên để lộ thanh đa nhiệm, pinch để trở về màn hình Home, và hãy xoay sang trái hoặc sang phải để chuyển đổi giữa các ứng dụng.
S / MIME Hỗ trợ Mail.app
FaceTime làm việc mà không có một thẻ SIM trên điện thoại của bạn. Làm việc với email của bạn một mình.
Khi bạn nhận được một cuộc gọi điện thoại không liên lạc, màn hình hiển thị chính cũng cho thấy tên thành phố (hoặc khu vực / hạt nếu nhận dạng), không chỉ là số điện thoại.
Camera, hãy nhấp và giữ để khóa / mở khóa AE / AF
Camera, sử dụng hai ngón tay cử chỉ lây lan / pinch để phóng to trong / ra phù hợp
Trong Lịch tháng xem, bên cạnh việc khai thác vào nút '+' để thêm một sự kiện, bạn cũng có thể khai thác và giữ bất cứ ngày nào. (Cảm ơn @ Alan)
Khi nhận được một cuộc gọi từ một số không trong danh bạ của bạn, điện thoại sẽ hiển thị vị trí của mã vùng điện thoại theo số ... tức là + 1 (514) 321 2345 sẽ hiển thị Quebec, Canada trong một phông chữ nhỏ hơn theo số lượng và không chỉ trong lịch sử cuộc gọi. (Thanks @ Kubus)
Sử dụng vị trí hiện tại trong Weather.app.
Hỗ trợ suy giảm trong thư. ứng dụng
Trong cài đặt bạn có thể chuyển đổi những tùy chọn mà bạn nhận được khi bạn nhấp và giữ vào liên kết trong Safari: hoặc mở ở chế độ nền hoặc trong một trang mới. (Thanks @ Andy)
Swipe trái và phải để thay đổi các tháng trong lịch trên iPad
Swipe để xóa các bài hát
Mua hàng tùy chọn lưu trữ khác cho iCloud
Khả năng thiết lập tùy chỉnh âm thanh cho các cảnh báo (New tin nhắn, thư thoại mới, Tin tức Mail, Thư đã gửi.)
Xác định theo cách của bạn trong Từ điển Ngoại tuyến
Ứng dụng mất dần đến màn hình khi treo máy, hơn là kéo nhẹ ra.
Khả năng Enable / Disable Badges trên Apps
Khi bạn tải về một ứng dụng trên iTunes trên máy tính của bạn, ứng dụng sẽ tự động đẩy lên iDevice của bạn và cài đặt.
Trực tuyến chi tiết Song như Artist Theo dõi và thông tin đến các thiết bị âm thanh Bluetooth.
Khi báo thức của bạn sẽ tắt, bạn có thể ngủ từ lockscreen hoặc trượt để tắt. (Lưu ý: Đây là một phong cách cập nhật, bạn trượt trên vùng thông báo, ngay bên dưới đồng hồ, chứ không phải là "Slide to Unlock" trước vị trí).
Bạn có thể thêm các tài khoản twitter nhiều và chọn những gì tài khoản để gửi một tweet từ.
Xóa dữ liệu của từng ứng dụng
iTunes Tune hàng
Giá cổ phiếu thời gian thực
VoiceOver mục chooser
Tùy chọn để nói chuyện lựa chọn văn bản
Khi điện thoại bị khóa và bạn chuyển đến chuông từ im lặng, các chỉ báo chuông cũng cho thấy thanh mức âm lượng.
Bạn có thể chọn nhiều email và đánh dấu chúng là đã đọc
Nhiều hơn một ứng dụng đồng thời. Không phải chờ đợi cho các ứng dụng trước đây để được hoàn thành
Bạn có thể chọn để hiển thị Thời tiết và Widges chứng khoán trên Trung tâm thông báo.
Voice Voice Control
Bạn có thể sắp xếp các sở thích của ứng dụng trong Trung tâm Thông báo. (Ví dụ: Bạn có thể đặt các widget Thời tiết luôn luôn trên đầu, tin nhắn tiếp theo.)
Khả năng thiết lập các tin nhắn tối đa tải về thông qua email tới 1000 thay vì là 250
Tài trợ các liên kết trong Google Maps
Double-tap vào nút nhà trong khi xem một đoạn video YouTube để hiển thị những người tải lên video
Di chuyển tiêu đề cho video YouTube
Thời gian giữa thông báo lời mời gọi
Thiết lập sân bay / Time Capsule trên thiết bị IOS của bạn
Lời mời cảnh báo FaceTime trong khi tham gia một cuộc gọi
Hỗ trợ Ngôn ngữ tiếng Ả Rập trong VoiceOver
Liên kết có thể được mở trong nền
Tích hợp hình ảnh người sử dụng Twitter vào Danh bạ. Đồng bộ chúng
Native 1080p phát lại video trong iPad 2
Lịch Nhật Bản hay Phật giáo hỗ trợ
Theo năm trong iPad cal
Hỗ trợ bản địa để biến trò chơi có trụ sở tại trung tâm Game
Tìm kiếm trong nội dung của email
Thụt đầu dòng điều khiển trong Mails.app
Dữ liệu trang web cá nhân có thể bị xóa từ Safari
iOS 5 sổ địa chỉ có một trường cho Twitter, Facebook, Flickr, LinkedIn và Myspace. (IOS 5 để tích hợp các mạng xã hội nhiều hơn?
Tìm kiếm trên trang 'khu vực cụ thể "tích hợp trong bàn phím ipad (hit google khi safari)
Có một ứng dụng cập nhật trong khi những người khác nói "chờ đợi ...", sau đó bạn tạm dừng các ứng dụng cập nhật. Sau đó, bạn ngay lập tức đặt các iDevice vào giấc ngủ. Tiếp theo, khi bạn thức dậy iDevice của bạn, tất cả chúng sẽ bị tạm dừng. Bạn có thể gõ nhiều hơn một ứng dụng để có nhiều hơn một tải.
Thiết lập Hotspot cá nhân được tìm thấy trong các thiết lập 'mạng'.
GIF là hoạt hình khi gửi thông qua iMessages. Nó không phải hoạt hình trong Photos.app.
VoiceOver mới và cập nhật tiếng nói đối với một số khu vực.
Chào mừng các bạn màn hình mới khi bạn bắt đầu sử dụng điện thoại cho lần đầu tiên.
PC miễn phí kích hoạt.
Thông báo Trung tâm
Máy ảnh khởi động nhanh từ lockscreen
Cổ phiếu và thời tiết xây dựng thành Trung tâm Thông báo
ứng dụng iPod được đổi tên thành âm nhạc với biểu tượng mới.
New Videos.app
iMessage
SMS bong bóng màu xanh lá cây trong màu sắc và iMessage xuất hiện bé màu xanh.
Sạp báo cho Tạp chí và báo
Khả năng Tạo và xóa các album ảnh.
Tích hợp hệ thống rộng Twitter.
Twitter bàn phím với các nút # và @.
Khả năng chỉnh sửa ảnh
Hệ thống lưới điện trong Máy ảnh
Làm tròn các nút mới
Thông báo Trung tâm có khả năng sắp xếp các thông báo bằng cách "thủ công" hoặc theo thời gian.
Bạn có thể chọn những ứng dụng được bao gồm trong Trung tâm Thông báo
Khả năng để đổi tên điện thoại của bạn trong các thiết lập.
Trong bản cập nhật phần mềm không Delta
Màn hình sử dụng hiện nay cho thấy có bao nhiêu bộ nhớ được tiêu thụ bởi mỗi ứng dụng.
ITunes Sync không dây
Bạn có thể kích hoạt hoặc vô hiệu hóa Quay số giọng nói trong khi điện thoại bị khóa trong Security Settings
Khả năng để thêm các phím tắt bàn phím. Mặc định "omw" mở rộng "Trên đường đi của tôi!" Khi bạn gõ bất cứ nơi nào.
New Nói chuyện tùy chọn lựa chọn trong Cài đặt Khả năng tiếp cận
Khả năng để thêm rung động tùy chỉnh
Cài đặt cảm ứng trợ giúp mới
Flash LED cho Cảnh báo
Khả năng Thiết lập lại hoặc phải cho Mono Audio
ICloud tùy chọn trong Cài đặt ứng dụng
Bạn có thể tạo địa chỉ email additional@me.com trong các thiết lập Thư
Khả năng tăng Cấp Trích dẫn trong Cài đặt Mail
Twitter hội nhập vào địa chỉ liên lạc
Bạn có thể chỉnh sửa số của bạn trong Cài đặt.
FaceTime tùy chọn trong cửa sổ Settings. Bạn cũng có thể thiết lập ID người gọi FaceTime của bạn sẽ được email của bạn hoặc số điện thoại của bạn
Tùy chọn Private Browsing trong Safari
Khả năng loại bỏ các dữ liệu trang web tùy chỉnh
Khả năng để chuyển đổi iMessage ON hoặc OFF trong cài đặt.
Khả năng cho phép đọc Biên lai
iMessage gửi như tin nhắn SMS khi iMessage không có sẵn
Bây giờ bạn có thể thiết lập bao nhiêu thời gian một cảnh báo tin nhắn đã được hiển thị một lần nữa nếu bạn không trả lời điện thoại khi nó thông báo cho một tin nhắn mới.
Thiết lập riêng biệt cho âm nhạc và Video
Ảnh Suối
Bạn có thể thiết lập tài khoản mặc định cho các ghi chú được đồng bộ hóa trong các tùy chọn Ghi chú
Chuyển đổi ON hoặc OFF cho tải tự động.
Thiết lập để sử dụng tải tự động khi thiết bị được kết nối với WiFi
Tuyến đường thay thế trong Maps
Mua Lịch sử trong App Store.
Cá nhân xóa các mục từ lịch sử cuộc gọi.
iCloud Sao lưu
Chụp ảnh bằng cách sử dụng nút Khối lượng
Nếu bạn bấm và giữ trên một tên bài hát trong Music.app, popup cho thấy tất cả các chi tiết.
Khả năng để kéo địa chỉ email 'giữa các trường trong khi gửi một email trong Mail.app
Mail thông báo cho bạn trước khi gửi một email nếu bạn đã quên đặt một dòng tiêu đề.
Nhỏ các biểu tượng mới và cập nhật vào Mail cho Windows Live Mail, Gmail, Exchange.
Chỉnh sửa Rich Text trong thư
System Wide Từ điển
Hỗ trợ in ấn trong Maps
Khả năng để ẩn giao thông trong Maps
Bạn có thể thiết lập tùy chỉnh nhạc chuông rung liên lạc với nhau, vì vậy khi nó rung động trong một mô hình cụ thể mà bạn biết ai đang gọi.
Notes.app cho thấy số lượng các ghi chú được thực hiện trên tiêu đề
New Tìm hiểu Liên kết trên các ứng dụng cài đặt để được trợ giúp
Các hình ảnh trong Trung tâm game
Khả năng để làm cho hồ sơ của bạn công cộng và tư nhân trên Game Center
Điểm Game Center, cho bạn thấy bao nhiêu điểm bạn có trên màn hình chủ của trung tâm trò chơi
Sắp xếp và Xem bạn bè trên cơ sở các điểm.
Khuyến nghị bạn bè trong Game Center
Trò chơi mới được tải về thông qua Game Center
Khuyến nghị trò chơi trong Game Center
Màn hình yêu cầu bạn bè mới
Ứng dụng giọng nói bản ghi nhớ quay trong tất cả các hướng, bao gồm cả đảo lộn.
Đặt chuông văn bản tùy chỉnh cho liên lạc với nhau.
Thời tiết ở địa phương ứng dụng Thời tiết
Danh hàng giờ thời tiết
Đọc danh sách trong Safari
Duyệt web theo thẻ trong Safari trên iPad
Đọc những loại bỏ tất cả các lộn xộn từ các trang web trên iPad
Chia Bàn phím trên iPad
AirPlay Mirroring
Bạn có thể sử dụng điện thoại của bạn trong khi đồng bộ hóa với iTunes.
Emoji Hỗ trợ
Tweet hình ảnh và các liên kết từ iOS
Khi bạn cảnh quan điện thoại của bạn trong iCal, nó mang lại cho bạn một cái nhìn tuần.
New Music App trong iPad
iCloud Sync tài liệu và sao lưu
FadeOut nhẹ trên bên phải của thanh địa chỉ trình duyệt Safari.
Đọc danh sách hỗ trợ trên Safari
Vị trí Nhắc nhở Dựa
Lịch bây giờ cho phép bạn điều hướng từ ngày này sang ngày khác bằng cách sang.
Khi bạn đang ở chế độ camera, hãy xoay sang trái để lộ ra hình ảnh gần đây nhất. Swipe phải quay trở lại máy ảnh.
Watermark trong hộp nhập văn bản nói rằng "iMessage" hoặc "tin nhắn văn bản" cho phù hợp
Cảnh báo các cuộc gọi không có bảo đảm cho phép người dùng biết nếu họ đang nói chuyện trên không được mã hóa mạng lưới
Nhóm Tin nhắn trong iMessage.
Gửi ảnh, video bằng cách sử dụng iMessage.
Khả năng sử dụng nhiều ID của Apple cho các mục đích khác nhau. (Điều này đã được một trong những câu hỏi được hỏi)
Khi một thông báo trên lockscreen, hãy kéo nó để mở các ứng dụng cụ thể.
Swipe trên thời tiết sang trái hoặc phải vào Trung tâm Thông báo thả xuống để xem dự báo ngày.
Đa nhiệm Gestures trong iPad. Sử dụng bốn hoặc năm ngón tay, hãy kéo mạnh lên để lộ thanh đa nhiệm, pinch để trở về màn hình Home, và hãy xoay sang trái hoặc sang phải để chuyển đổi giữa các ứng dụng.
S / MIME Hỗ trợ Mail.app
FaceTime làm việc mà không có một thẻ SIM trên điện thoại của bạn. Làm việc với email của bạn một mình.
Khi bạn nhận được một cuộc gọi điện thoại không liên lạc, màn hình hiển thị chính cũng cho thấy tên thành phố (hoặc khu vực / hạt nếu nhận dạng), không chỉ là số điện thoại.
Camera, hãy nhấp và giữ để khóa / mở khóa AE / AF
Camera, sử dụng hai ngón tay cử chỉ lây lan / pinch để phóng to trong / ra phù hợp
Trong Lịch tháng xem, bên cạnh việc khai thác vào nút '+' để thêm một sự kiện, bạn cũng có thể khai thác và giữ bất cứ ngày nào. (Cảm ơn @ Alan)
Khi nhận được một cuộc gọi từ một số không trong danh bạ của bạn, điện thoại sẽ hiển thị vị trí của mã vùng điện thoại theo số ... tức là + 1 (514) 321 2345 sẽ hiển thị Quebec, Canada trong một phông chữ nhỏ hơn theo số lượng và không chỉ trong lịch sử cuộc gọi. (Thanks @ Kubus)
Sử dụng vị trí hiện tại trong Weather.app.
Hỗ trợ suy giảm trong thư. ứng dụng
Trong cài đặt bạn có thể chuyển đổi những tùy chọn mà bạn nhận được khi bạn nhấp và giữ vào liên kết trong Safari: hoặc mở ở chế độ nền hoặc trong một trang mới. (Thanks @ Andy)
Swipe trái và phải để thay đổi các tháng trong lịch trên iPad
Swipe để xóa các bài hát
Mua hàng tùy chọn lưu trữ khác cho iCloud
Khả năng thiết lập tùy chỉnh âm thanh cho các cảnh báo (New tin nhắn, thư thoại mới, Tin tức Mail, Thư đã gửi.)
Xác định theo cách của bạn trong Từ điển Ngoại tuyến
Ứng dụng mất dần đến màn hình khi treo máy, hơn là kéo nhẹ ra.
Khả năng Enable / Disable Badges trên Apps
Khi bạn tải về một ứng dụng trên iTunes trên máy tính của bạn, ứng dụng sẽ tự động đẩy lên iDevice của bạn và cài đặt.
Trực tuyến chi tiết Song như Artist Theo dõi và thông tin đến các thiết bị âm thanh Bluetooth.
Khi báo thức của bạn sẽ tắt, bạn có thể ngủ từ lockscreen hoặc trượt để tắt. (Lưu ý: Đây là một phong cách cập nhật, bạn trượt trên vùng thông báo, ngay bên dưới đồng hồ, chứ không phải là "Slide to Unlock" trước vị trí).
Bạn có thể thêm các tài khoản twitter nhiều và chọn những gì tài khoản để gửi một tweet từ.
Xóa dữ liệu của từng ứng dụng
iTunes Tune hàng
Giá cổ phiếu thời gian thực
VoiceOver mục chooser
Tùy chọn để nói chuyện lựa chọn văn bản
Khi điện thoại bị khóa và bạn chuyển đến chuông từ im lặng, các chỉ báo chuông cũng cho thấy thanh mức âm lượng.
Bạn có thể chọn nhiều email và đánh dấu chúng là đã đọc
Nhiều hơn một ứng dụng đồng thời. Không phải chờ đợi cho các ứng dụng trước đây để được hoàn thành
Bạn có thể chọn để hiển thị Thời tiết và Widges chứng khoán trên Trung tâm thông báo.
Voice Voice Control
Bạn có thể sắp xếp các sở thích của ứng dụng trong Trung tâm Thông báo. (Ví dụ: Bạn có thể đặt các widget Thời tiết luôn luôn trên đầu, tin nhắn tiếp theo.)
Khả năng thiết lập các tin nhắn tối đa tải về thông qua email tới 1000 thay vì là 250
Tài trợ các liên kết trong Google Maps
Double-tap vào nút nhà trong khi xem một đoạn video YouTube để hiển thị những người tải lên video
Di chuyển tiêu đề cho video YouTube
Thời gian giữa thông báo lời mời gọi
Thiết lập sân bay / Time Capsule trên thiết bị IOS của bạn
Lời mời cảnh báo FaceTime trong khi tham gia một cuộc gọi
Hỗ trợ Ngôn ngữ tiếng Ả Rập trong VoiceOver
Liên kết có thể được mở trong nền
Tích hợp hình ảnh người sử dụng Twitter vào Danh bạ. Đồng bộ chúng
Native 1080p phát lại video trong iPad 2
Lịch Nhật Bản hay Phật giáo hỗ trợ
Theo năm trong iPad cal
Hỗ trợ bản địa để biến trò chơi có trụ sở tại trung tâm Game
Tìm kiếm trong nội dung của email
Thụt đầu dòng điều khiển trong Mails.app
Dữ liệu trang web cá nhân có thể bị xóa từ Safari
iOS 5 sổ địa chỉ có một trường cho Twitter, Facebook, Flickr, LinkedIn và Myspace. (IOS 5 để tích hợp các mạng xã hội nhiều hơn?
Tìm kiếm trên trang 'khu vực cụ thể "tích hợp trong bàn phím ipad (hit google khi safari)
Có một ứng dụng cập nhật trong khi những người khác nói "chờ đợi ...", sau đó bạn tạm dừng các ứng dụng cập nhật. Sau đó, bạn ngay lập tức đặt các iDevice vào giấc ngủ. Tiếp theo, khi bạn thức dậy iDevice của bạn, tất cả chúng sẽ bị tạm dừng. Bạn có thể gõ nhiều hơn một ứng dụng để có nhiều hơn một tải.
Thiết lập Hotspot cá nhân được tìm thấy trong các thiết lập 'mạng'.
GIF là hoạt hình khi gửi thông qua iMessages. Nó không phải hoạt hình trong Photos.app.
VoiceOver mới và cập nhật tiếng nói đối với một số khu vực.
leanhhuy (I11C)- Tổng số bài gửi : 22
Join date : 30/08/2011
Lược sử phát triển hệ điều hành Windows
Windows đã có một lịch sử phát triển khá dài, phiên bản đầu tiên của hệ điều hành này đã được phát hành cách đây khoảng 25 năm và quãng thời gian mà Windows chiếm được ưu thế đối với các máy tính cá nhân cũng vào khoảng trên 15 năm. Rõ ràng, qua rất nhiều thay đổi về kỹ thuật trong hơn 25 năm qua, phiên bản ngày nay của Windows đã được phát triển hơn rất nhiều so với phiên bản Windows 1.0.
Phiên bản đầu tiên của Windows này (Windows 1.0) khá sơ đẳng. Sơ đẳng hơn cả hệ điều hành DOS trước đó, tuy nhiên nhược điểm phát sinh là ở chỗ rất khó sử dụng. Vì thực tế khi đó nếu bạn không có chuột thì việc sử dụng sẽ khó khăn hơn rất nhiều so với giao diện dòng lệnh của DOS.
Tuy nhiên Windows được phát triển ngày một tốt hơn và cũng được phổ biến rộng rãi hơn. Microsoft đã nâng cấp Windows trên một cơ sở nhất quán qua hai thập kỷ qua. Phát hành một phiên bản Windows mới sau một vài năm; đôi khi phiên bản mới chỉ là một nâng cấp nhỏ nhưng đôi khi lại là quá trình đại tu toàn bộ.
Cho ví dụ, Windows 95 (phát hành năm 1995), phiên bản được viết lại toàn bộ từ Windows 3.X trước đó nhưng trong khi đó phiên bản kế tiếp, Windows 98, lại là một nâng cấp và phiên bản Windows 98 thứ hai (năm 1999) thực sự không khác gì một bản vá lỗi nhỏ.
Vậy phiên bản Windows 7 sắp ra nằm ở đâu trong timeline này? Windows Vista, phiên bản trước đó, là một sự đại tu triệt để đối với hệ điều hành này thì Win7 cũng có vẻ giống như Windows 98 – một nâng cấp bổ sung thứ thiệt.
Đó là việc dõi theo lịch sử phát triển của Windows, rõ ràng, các nâng cấp thứ yếu thường được phát hành sau những nâng cấp chủ đạo. Ở đây Vista là chủ đạo, Windows 7 là thứ yếu, và đó cũng chính là chu trình phát triển hệ điều hành của Microsoft.
Với những giới thiệu tổng quan trên, chúng ta hãy xem xét chi tiết hơn về mỗi một phiên bản liên tiếp của Windows – bắt đầu với hình thức sơ khai nhất của nó, hệ điều hành được biết đến với tên DOS.
DOS
Windows được phát triển từ hệ điều hành DOS ban đầu của Microsoft, đây là hệ điều hành được phát hành năm 1981. Hệ điều hành mới này đã được Bill Gates và Paul Allen phát triển để chạy trên máy tính cá nhân IBM, với giao diện hoàn toàn bằng văn bản và các lệnh người dùng giản đơn.
Hệ điều hành đầu tiên của Microsoft - PC-DOS 1.0
Những cải tiến tiếp tục được thực hiện, IBM đã liên hệ với công ty Microsoft để cung cấp hệ điều hành cho các máy tính IBM vào thời điểm ban đầu này. Khi đó Gates và Allen đã mua QDOS (quick and dirty operating system) từ Seattle Computer Products và đã điều chỉnh những cần thiết cho hệ thống máy tính mới.
Hệ điều khi đó được gọi là DOS, viết tắt cho cụm từ disk operating system. DOS là một tên chung cho hai hệ điều hành khác nhau. Khi được đóng gói với các máy tính cá nhân IBM, DOS được gọi là PC DOS. Còn khi được bán dưới dạng một gói riêng bởi Microsoft, DOS được gọi là MS-DOS. Tuy nhiên cả hai phiên bản đều có chức năng tương tự nhau.
Hầu hết người dùng PC thế hệ đầu tiên đều phải học để điều hành máy tính của họ bằng DOS. Nhưng hệ điều hành này không thân thiện một chút nào; nó yêu cầu người dùng phải nhớ tất cả các lệnh và sử dụng các lệnh đó để thực hiện hầu hết các hoạt động hàng ngày, chẳng hạn như việc copy các file, thay đổi thư mục,… Ưu điểm chính của DOS là tốc độ và tiêu tốn ít bộ nhớ, đây là hai vấn đề quan trọng khi hầu hết các máy tính chỉ có 640K bộ nhớ.
Windows 1.0
Microsoft tin rằng các máy tính các nhân sẽ trở thành xu thế chủ đạo, chúng phải dễ dàng hơn trong sử dụng, bảo vệ cho sự tin tưởng đó chính là giao diện đồ họa người dùng (GUI) thay cho giao diện dòng lệnh của DOS. Với quan điểm đó, Microsoft đã bắt tay vào thực hiện phiên bản mở đầu của Windows vào năm 1983, và sản phẩm cuối cùng được phát hành ra thị trường vào tháng 11 năm 1985.
Phiên bản đầu tiên của Windows - Windows 1.0
Windows ban đầu được gọi là Interface Manager, và không có gì ngoài một lớp vỏ đồ họa đặt trên hệ điều hành DOS đang tồn tại. Trong khi DOS chỉ là một hệ điều hành sử dụng các lệnh bằng văn bản và gắn chặt với bàn phím thì Windows 1.0 đã hỗ trợ hoạt động kích vào thả của chuột. Tuy nhiên các cửa sổ trong giao diện hoàn toàn cứng nhắc và không mang tính xếp chồng.
Không giống các hệ điều hành sau này, phiên bản đầu tiên của Windows này chỉ có một vài tiện ích sơ đẳng. Nó chỉ có chương trình đồ họa Windows Paint, bộ soạn thảo văn bản Windows Write, bộ lịch biểu, notepad và một đồng hồ. Tuy nhiên thời đó Windows 1.0 cũng có Control Panel, đây là thành phần được sử dụng để cấu hình các tính năng khác cho môi trường, và MS-DOS Executive - kẻ tiền nhiệm cho bộ quản lý file Windows Explorer ngày nay.
Không hề ngạc nhiên vì Windows 1.0 không thành công như mong đợi. Do lúc đó không có nhiều nhu cầu cho một giao diện đồ họa người dùng cho các ứng dụng văn bản cho các máy tính PC của IBM và đây cũng là phiên bản Windows đầu tiên yêu cầu nhiều công xuất hơn các máy tính vào thời đại đó.
Windows 2.0
Phiên bản thứ hai của Windows được phát hành vào năm 1987, đây là phiên bản được cải tiến dựa trên phiên bản Windows 1.0. Phiên bản mới này đã bổ sung thêm các cửa sổ có khả năng xếp chồng nhau và cho phép tối thiểu hóa các cửa sổ để chuyển qua lại trong desktop bằng chuột.
Các cửa sổ xếp chồng của Windows 2.0
Trong phiên bản này, Windows 2.0 đã có trong nó các ứng dụng Word và Excel của Microsoft. Lúc này Word và Excel là các ứng dụng đồ họa cạnh tranh với các đối thủ khi đó WordPerfect và Lotus 1-2-3; các ứng dụng của Microsoft cần một giao diện đồ họa để có thể chạy hợp thức, do đó Microsoft đã tích hợp chúng vào với Windows.
Lúc này không có nhiều ứng dụng tương thích với Windows. Chỉ có một ngoại lệ đáng lưu ý đó là chương trình Aldus PageMaker.
Windows 3.0
Lần thứ ba có tiến bộ hơn các phiên bản trước rất nhiều và đánh dấu một mốc quan trọng trong thương mại. Windows 3.0, phát hành năm 1990, là phiên bản thương mại thành công đầu tiên của hệ điều hành, Microsoft đã bán được khoảng 10 triệu copy trong hai năm trước khi nâng cấp lên 3.1. Đây là phiên bản hệ điều hành đa nhiệm đích thực đầu tiên. Sau sự thành công với Macintosh của Apple, thế giới máy tính cá nhân đã sẵn sàng cho một hệ điều hành đa nhiệm cùng với giao diện đồ họa người dùng.
Phiên bản Windows 3.0
Windows 3.0 là một cải thiện lớn so với các phiên bản trước đây. Giao diện của nó đẹp hơn nhiều với các nút 3D và người dùng có thể thay đổi màu của desktop (tuy nhiên thời điểm này chưa có các ảnh nền - wallpaper). Các chương trình được khởi chạy thông qua chương trình Program Manager mới, và chương trình File Manager mới đã thay thế cho chương trình MS-DOS Executive cũ trong vấn đề quản lý file. Đây cũng là phiên bản đầu tiên của Windows có trò chơi Solitaire trong đó. Một điều quan trọng nữa là Windows 3.0 có một chế độ Protected/Enhanced cho phép các ứng dụng Windows nguyên bản có thể sử dụng bộ nhớ nhiều hơn hệ điều hành DOS của nó.
Sau phát hành Windows 3.0, các ứng dụng được viết cho Windows được phát triển rất rộng rãi trong khi đó các ứng dụng không cho Windows (non-Windows) thì ngược lại. Windows 3.0 đã làm cho các ứng dụng Word và Excel đã đánh bại các đối thủ cạnh tranh khác như WordPerfect, 1-2-3.
Windows 3.1
Windows 3.1, phát hành năm 1992, có thể coi là một nâng cấp cho phiên bản 3.0. Phiên bản này không chỉ có các bản vá lỗi cần thiết mà nó còn là phiên bản đầu tiên mà Windows hiển thị các font TrueType –làm cho Windows trở thành một nền tảng quan trọng cho các máy desktop. Một điểm mới nữa trong Windows 3.1 là bộ bảo vệ màn hình (screensaver) và hoạt động kéo và thả.
Các font TrueType của Windows 3.1
Windows cho các nhóm làm việc (Workgroup)
Cũng được phát hành vào năm 1992, Windows cho các nhóm làm việc (viết tắt là WFW), là phiên bản dùng để kết nối đầu tiên của Windows. Ban đầu được phát triển như một add-on của Windows 3.0, tuy nhiên WFW đã bổ sung thêm các driver và các giao thức cần thiết (TCP/IP) cho việc kết nối mạng ngang hàng. Đây chính là phiên bản WFW của Windows thích hợp với môi trường công ty.
Windows cho các nhóm làm việc – phiên bản kết nối đầu tiên của Windows
Với WFW, các phát hành của Windows được chia thành hai hướng: hướng dành cho khách hàng, được thiết kế dành cho sử dụng trên các máy tính PC riêng lẻ, hiện thân là Windows 3.1 và Windows 95 sắp ra đời, và một hướng là dành cho khối doanh nghiệp, được thiết kế để sử dụng trên các máy tính có kết nối mạng, hiện thân là WFW và Windows NT sắp ra đời.
Windows NT
Phát hành kế tiếp cho khối doanh nghiệp của Windows là Windows NT (từ NT là viết tắt của cụm từ new technology), phiên bản chính thức được phát hành vào năm 1993. Mặc dù vậy NT không phải là một nâng cấp đơn giản cho WFW mà thay vì đó nó là một hệ điều hành 32-bit đúng nghĩa được thiết kế cho các tổ chức có kết nối mạng. (Các phiên bản khách hàng vẫn được duy trì ở các hệ điều hành 16-bit).
Windows NT – phiên bản Windows 32-bit đầu tiên dành cho sử dụng trong khối doanh nghiệp
Windows NT cũng là một thành viên trong hợp tác phát triển hệ điều hành OS/2 của Microsoft với IBM. Tuy nhiên khi mối quan hệ giữa IBM và Microsoft bị đổ vỡ, IBM vẫn tiếp tục với OS/2, trong khi đó Microsoft đã thay đổi tên phiên bản của OS/2 thành Windows NT.
Phục vụ cho khách hàng doanh nghiệp, Windows NT đã có hai phiên bản: Workstation và Server. NT Workstation được dành cho các PC riêng rẽ trên mạng công ty, còn NT Server có nhiệm vụ máy chủ cho tất cả các PC được kết nối với nhau.
Với những khả năng cải thiện về công nghệ kết nối mạng, NT đã trở thành một hệ điều hành chủ đạo cho các máy chủ và máy trạm doanh nghiệp trên toàn thế giới. Nó cũng là cơ sở cho hệ điều hành Windows XP, hệ điều hành sát nhập hai luồng Windows thành một hệ điều hành chung vào năm 2001.
Windows 95
Quay trở lại với hướng khách hàng, Microsoft đã sẵn sàng một phát hành mới vào tháng 8 năm 1995. Phiên bản Windows 95 này có lẽ là phát hành lớn nhất trong số các phát hành Windows.
Windows 95 – phát hành Windows lớn nhất chưa từng có
Có thể khá khó khăn để hình dung lại sau 15 năm, nhưng phát hành Windows 95 là một sự kiện mang tính lịch sử, với việc đưa tin rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng, các khách hàng đã xếp thành những hàng dài bên ngoài các cửa hàng từ nửa đêm để mua được những bản copy đầu tiên của hệ điều hành này.
Tuy nhiên những gì mới thực sự gây choáng? Windows 95 có diện mạo đẹp hơn và khả năng làm việc cũng tốt hơn, cả hai thứ đó đều đạt được mong mỏi của người dùng sau nhiều năm chờ đợi. Đây là một hệ điều hành được viết lại phần lớn và đã cải thiện được giao diện người dùng và đưa Windows sang nền tảng 32-bit giả mạo. (Nhân kernel 16-bit vẫn được giữ lại để có thể tương thích với các ứng dụng cũ).
Windows 95 đã xuất hiện Taskbar, thanh tác vụ này có các nút cho các cửa sổ mở. Nó cũng là phiên bản đầu tiên của Windows có sử dụng nút Start và menu Start; các shortcut trên desktop, kích phải chuột và các tên file dài cũng lần đầu tiên xuất hiện trong phiên bản này.
Một điểm mới nữa trong Windows 95 – mặc dù không có trong phiên bản ban đầu – đó là trình duyệt web Internet Explorer của Microsoft. IE 1.0 lần đầu tiên xuất hiện là trong Windows 95 Plus! Với tư cách một add-on; phiên bản 2.0 có trong Win95 Service Pack 1, gói dịch vụ được phát hành vào tháng 12 năm 1995.
Windows 98
Windows 98, cũng được lấy tên năm phát hành của nó (1998), là một thay đổi mang tính cách mạng so với phiên bản trước đó. Diện mạo bên ngoài của nó đẹp hơn Windows 95 khá nhiều, và thậm chí nó còn có nhiều cải thiện hữu dụng bên trong. Những cải thiện ở đây như sự hỗ trợ cho USB, chia sẻ kết nối mạng và hệ thống file FAT32, tuy tất cả đều những cải thiện này rất đáng giá nhưng không làm cho cả thế giới choáng ngợp như lần ra mắt của Windows 95.
Windows 98
Microsoft đã phát hành phiên bản nâng cấp "Second Edition" của Windows 98 vào năm 1999. Phiên bản này có ít những thay đổi đáng chú ý mà chỉ có hầu hết các bản vá lỗi.
Windows Me
Microsoft phát hành phiên bản Windows Millennium edition vào năm 2000. Windows Me, có lẽ là lỗi lớn nhất của Microsoft, một nâng cấp thứ yếu với rất nhiều lỗi thay vì sửa các lỗi trước đó.
Windows me
Trong phiên bản mới này, Microsoft đã nâng cấp các tính năng Internet và multimedia của Windows 98, bổ sung thêm ứng dụng Windows Movie Maker, giới thiệu tiện ích System Restore – tất cả đều là những ứng dụng tốt. Tuy nhiên điều đáng chú ý nhất trong Windows Me đó là hiện tượng dễ đổ vỡ và hệ thống dễ bị treo. Nguyên nhân này đã làm cho nhiều khách hàng và các doanh nghiệp bỏ qua toàn bộ nâng cấp này.
Windows 2000
Được phát hành gần như đồng thời với phát hành dành cho khách hàng Windows Me, Windows 2000 là một nâng cấp thành công cho khối doanh nghiệp của Microsoft. Kế vị ngay sau Windows NT, Windows 2000 là một sự tiến hóa từ nền tảng cơ bản NT, và vẫn nhắm đến thị trường doanh nghiệp.
Windows 2000 – kẻ kế nhiệm cho Windows NT cho thị trường doanh nghiệp
Không giống như NT, Windows 2000 có hai phiên bản (Workstation và Server), Windows 2000 có đến 5 phiên bản khác nhau: Professional, Server, Advanced Server, Datacenter Server và Small Business Server. Tất cả các phiên bản đều kết hợp chặt chẽ các tính năng từ Windows 95/98 và tạo nên một giao diện đẹp mắt và tinh tế.
Windows XP
Các dòng hệ điều hành khách hàng và doanh nghiệp của Windows đã được nhập thành một với phát hành năm 2001 của Windows XP. Đây là phiên bản đầu tiên mà Microsoft đưa sự tin cậy trong dòng doanh nghiệp ra thị trường khách hàng – và đưa sự thân thiện vào thị trường doanh nghiệp. XP có sự pha trộng tốt nhất giữa các phiên bản Windows 95/98/Me với thao tác 32-bit của Windows NT/2000 và giao diện người dùng được tân trang lại. Về bản chất có thể cho rằng XP là kết hợp giao diện của Windows 95/98/Me vào NT/2000 core, bỏ qua cơ sở mã DOS đã xuất hiện trong các phiên bản khách hàng trước của Windows.
Giao diện thân thiện hơn của Windows XP
Với Windows XP, Microsoft đã bắt đầu phân khúc thị trường bằng một số phiên bản khác nhau, mỗi một phiên bản lại có một tập các tính năng riêng biệt. Các phiên bản khác nhau được phân khúc ở đây gồm có: XP Home Edition, XP Professional (cho người dùng khối doanh nghiệp), XP Media Center Edition, XP Tablet PC Edition, và XP Starter Edition (cho người dùng trong các nước đang phát triển). Tuy nhiều người dùng cảm thấy lộn xộn về sự phân khúc này, nhưng Microsoft dường như lại không quan tâm đến điều đó.
Từ quan điểm của người dùng, XP là một phiên bản đẹp hơn, nhanh hơn so với các phiên bản trước đó Windows 95/98 hoặc Windows 2000. (Nó cũng có độ tin cậy cao hơn so với hệ điều hành Windows Me thất bại trước đó). Giao diện Luna cho bạn thấy đẹp hơn và thân thiện hơn, tính năng Fast User Switching cho phép cùng một máy có thể được chia sẻ dễ dàng với những người dùng khác.
Windows Vista
Được phát hành năm 2007, phiên bản Windows này đã phát triển các tính năng của XP và bổ sung thêm sự bảo mật và độ tin cậy, chức năng truyền thông số được cải thiện và giao diện đồ họa người dùng Aero 3D đẹp mắt.
Giao diện Aero của Windows Vista
Chúng ta hãy bắt đầu với giao diện, để chạy được giao diện nâng cao này đòi hỏi các máy tính phải có cấu hình cao, chính vì lý do này mà Vista bị hạn chế khả năng nâng cấp từ nhiều máy tính cũ. Giao diện Aero hiển thị các thành phần 3D gần như trong suốt và đường bao cửa sổ kiểu kính, bên cạnh đó còn nhiều thứ trong Vista cũng rất khác biệt.
Các biểu tượng thư mục và file hiển thị bằng các thumbnail nội dung của chúng. Khi bạn chuyển giữa các ứng dụng đang mở, Windows sẽ cuộn và xoay vòng để hiển thị theo ngăn xếp 3D. Các cửa sổ trông uyển chuyển hơn, tròn trịa hơn và có tính mờ đục, tăng cảm giác sâu khi bạn xem nhiều cửa sổ trên màn hình. Bên cạnh đó còn có một Sidebar để giữ các Gadget, các ứng dụng nhỏ chuyên dụng cho một nhiệm vụ nào đó.
Bên trong, Vista được thiết kế để chạy an toàn và tráng kiện hơn Windows XP. Tuy nhiên một trong những tính năng bảo mật – người dùng phàn nàn nhiều – là User Account Control, tính năng này góp phần vào làm gián đoạn các hoạt động thông thường của người dùng. Dự định thì tốt (nhằm ngăn chặn không cho truy cập trái phép vào hệ thống), tuy nhiên khi thực thi thì chương trình lại làm cho người dùng tỏ ra rất khó chịu với các cửa sổ đòi hỏi sự cho phép xuất hiện quá nhiều.
Thậm chí tồi tệ hơn, nhiều người dùng gặp phải các vấn đề trong việc nâng cấp thiết bị cũ lên Vista. Nhiều thiết bị ngoại vi cũ không có driver tương thích với Vista (đây có thể coi là một vấn đề với bất cứ nâng cấp Windows nào), tuy nhiên có một số chương trình chạy trên XP không thể làm việc đúng cách trong môi trường Vista.
Chắc hẳn từ những yếu tố không thành công trên của Windows Vista mà Microsoft đã bắt tay vào để phát triển kẻ kế nhiệm cho Vista ngay lập tức – Windows 7 sắp được phát hành.
Windows 7
Phiên bản mới nhất của Windows dự kiến được phát hành vào tháng 10 năm 2009. Đó là quãng thời gian hai năm ngắn ngủ sau khi phát hành Windows Vista, điều đó cũng có nghĩa rằng nó không phải một nâng cấp chủ đạo (không đủ thời gian).
Thay vì đó chúng ta có thể nghĩ về Windows 7 với Windows Vista giống như mối quan hệ của Windows 98 với Windows 95. Nó chỉ là một phát hành thứ yếu, giống một gói dịch vụ hơn là một nâng cấp quy mô lớn.
Taskbar mới trong Windows 7
Người dùng Windows 7 hầu như hài lòng với hệ điều hành mới nhất này của Microsoft, đáng chú ý là nó lại có sức hấp dẫn với người dùng Vista hơn là XP (theo pcworld.com.vn). Có khoảng 615 người đã tham gia trả lời tại trang web Technologizer. Phần lớn họ đều cảm thấy rất hài lòng với HĐH mới, kể cả người dùng Windows XP lẫn số đông dùng Windows Vista đều công nhận những cải tiến đáng kể của Windows 7. Những rắc rối lê thê trong tiến trình cài đặt thường là lý do chính khiến người dùng chùn bước khi chuyển sang HĐH khác thì nay hiếm xảy ra trên Windows 7.
Trước khi sử dụng Windows 7, 46% người được hỏi đã dùng Windows Vista, 32% dùng XP, 17% dùng cả Vista lẫn XP, 5% chạy HĐH không phải Windows và 0,7% chạy phiên bản Windows khác.
Trong số người khảo sát, có 73% người dùng theo dạng nâng cấp lên Windows 7 còn 8% sử dụng HĐH được cài sẵn, 14% chạy trên phiên bản thử nghiệm và 6% chạy trên Mac thông qua phần mềm Boot Camp của Apple hoặc dùng chương trình ảo hóa.
Xét đến mức độ am hiểu về Windows, 64% người trả lời tự nhận là chuyên gia, 35% ở mức sử dụng thông thường và dưới 1% là người mới bắt đầu làm quen. Có 61% người sử dụng Windows 7 cho cá nhân và gia đình, 25% dùng cho gia đình cũng như doanh nghiệp, chỉ 14% sử dụng hoàn toàn cho doanh nghiệp.
Cũng vậy, có 61% người trả lời là dùng bản 64-bit của Windows 7, chỉ 31% chạy bản 32-bit.
Đại đa số người dùng đã chọn cài đặt mới hoàn toàn, chiếm 82%, 19% cài Windows 7 đè lên Vista.
Cuối cùng, 59% người dùng liên tục sử dụng Windows 7, 36% ở mức khá và chỉ 5% là ít dùng.
Cần lưu ý là mục đích của cuộc khảo sát này không phải đưa ra một đánh giá chung, ý kiến chung nhất cho hết thảy người dùng Windows 7 mà bài viết chỉ tổng hợp ý kiến của nhóm người dùng trên trang Technologizer được khảo sát mà thôi. Ý kiến của họ mang tính chủ quan nhưng kết quả có được khá thú vị.
Vậy có những gì thay đổi trong Windows 7? Đầu tiên, phát hành này sẽ thay đổi những gì mà người dùng không thích trong Windows Vista. Phần cứng cũ và phần mềm cũ tương thích nhiều hơn, và thậm chí còn có cả tính năng Windows XP Mode cho phép chạy các ứng dụng trong thời đại XP trong môi trường nguyên bản của Windows 7. User Account Control cũng được cải thiện nhiều hơn để giảm bớt sự gián đoạn gây khó chịu đối với người dùng.
Tiếp đến, Windows 7 còn có một số thay đổi về mặt giao diện. Sidebar bị bỏ đi và thay vào đó bạn có thể đặt các Gadget trực tiếp lên desktop. Bên cạnh là chế độ Aero Peek mới cho phép bạn nhìn “đằng sau” tất cả các cửa sổ mở để thấy những gì bên dưới desktop, cũng như các hoạt động Aero Snaps mới cho phép bạn dễ dàng di chuyển và cực đại hóa các cửa sổ.
Mặc dù vậy thay đổi lớn nhất lại rơi vào taskbar, một dải cố định trên màn hình xuất hiện lần đầu tiên trong Windows 95. Taskbar mới trong Windows 7 cho phép bạn dock (neo đậu) cả các cửa sổ đang mở và các ứng dụng lẫn tài liệu ưa thích của bạn. Kích chuột phải vào một nút của taskbar, bạn sẽ thấy một Jump List các tài liệu gần đây và các hoạt động hữu dụng khác; đưa chuột qua nút taskbar, bạn sẽ thấy một ứng dụng đang mở và bạn thumbnail của tất cả các tài liệu. Có thể nói Windows 7 thay đổi cách bạn thực hiện trong nhiều thứ, tuy nhiên được nhiều người nhận định là những cách mang tính tích cực.
Windows 8
Hệ điều hành thế hệ 8 của Microsoft là phiên bản Windows hoàn toàn mới từ phần lõi tới giao diện và được thiết kế cho màn hình cảm ứng.
Windows 8 "Metro" Interface Start Screen
Windows 8 "Metro" Interface Start Screen
Tại sự kiện All Things D ở Mỹ, Microsoft đã trình diễn những đặc điểm mới của Windows 8. Một trong những nét nổi bật là các ứng dụng được thể hiện ngay trên màn hình khởi động Start dưới dạng các cửa sổ nhỏ giống như Windows Phone 7, thay thế cho Menu quen thuộc của Windows Start.
Các ứng dụng xếp trên màn hình đều có hiển thị thông báo và luôn cập nhật thông tin mới nhất cho người sử dụng. Họ có thể kéo, thả và thay đổi kích cỡ ứng dụng hoặc đặt chúng tại các cạnh của màn hình tùy theo nhu cầu.
Dù giao diện được thiết kế cho cảm ứng, Windows 8 cũng tương tác tốt với chuột và bàn phím. Windows 8 có khả năng khởi động siêu tốc từ chế độ nghỉ (sleep), chuyển đổi giữa các ứng dụng nhanh, tích hợp sẵn trình duyệt Internet Explorer 10 với công nghệ Silverlight và phần mềm văn phòng Office 365.
Windows 8 Lockscreen
Windows 8 Control Panel
Standard On-Screen Touch Keyboard
News Reading Application
Video Settings Overlay
Search Your Computer, Apps and the Web
Image Files
Microsoft cho biết Windows 8 là hệ điều hành nhiều cải tiến nhất kể từ Windows 95 (được ra mắt 16 năm trước). Nền tảng này hoạt động trên máy tính bảng dùng chip x86 của Intel và AMD. Tập đoàn phần mềm Mỹ khẳng định sẽ hỗ trợ cả chip ARM bao gồm các hãng sản xuất Nvidia, TI, Qualcomm.
Cũng trong khuôn khổ hội thảo, Microsoft giới thiệu cách thức giúp các nhà phát triển ứng dụng xây dựng các phần mềm mới cho hệ thống Windows 8, tận dụng sức mạnh của HTML5 và JavaScript.
Ngày phát hành Windows 8 chưa được công bố. Thiết bị đầu tiên chạy hệ điều hành này dự kiến sẽ được xuất xưởng cuối năm nay hoặc đầu năm 2012.
Phiên bản đầu tiên của Windows này (Windows 1.0) khá sơ đẳng. Sơ đẳng hơn cả hệ điều hành DOS trước đó, tuy nhiên nhược điểm phát sinh là ở chỗ rất khó sử dụng. Vì thực tế khi đó nếu bạn không có chuột thì việc sử dụng sẽ khó khăn hơn rất nhiều so với giao diện dòng lệnh của DOS.
Tuy nhiên Windows được phát triển ngày một tốt hơn và cũng được phổ biến rộng rãi hơn. Microsoft đã nâng cấp Windows trên một cơ sở nhất quán qua hai thập kỷ qua. Phát hành một phiên bản Windows mới sau một vài năm; đôi khi phiên bản mới chỉ là một nâng cấp nhỏ nhưng đôi khi lại là quá trình đại tu toàn bộ.
Cho ví dụ, Windows 95 (phát hành năm 1995), phiên bản được viết lại toàn bộ từ Windows 3.X trước đó nhưng trong khi đó phiên bản kế tiếp, Windows 98, lại là một nâng cấp và phiên bản Windows 98 thứ hai (năm 1999) thực sự không khác gì một bản vá lỗi nhỏ.
Vậy phiên bản Windows 7 sắp ra nằm ở đâu trong timeline này? Windows Vista, phiên bản trước đó, là một sự đại tu triệt để đối với hệ điều hành này thì Win7 cũng có vẻ giống như Windows 98 – một nâng cấp bổ sung thứ thiệt.
Đó là việc dõi theo lịch sử phát triển của Windows, rõ ràng, các nâng cấp thứ yếu thường được phát hành sau những nâng cấp chủ đạo. Ở đây Vista là chủ đạo, Windows 7 là thứ yếu, và đó cũng chính là chu trình phát triển hệ điều hành của Microsoft.
Với những giới thiệu tổng quan trên, chúng ta hãy xem xét chi tiết hơn về mỗi một phiên bản liên tiếp của Windows – bắt đầu với hình thức sơ khai nhất của nó, hệ điều hành được biết đến với tên DOS.
DOS
Windows được phát triển từ hệ điều hành DOS ban đầu của Microsoft, đây là hệ điều hành được phát hành năm 1981. Hệ điều hành mới này đã được Bill Gates và Paul Allen phát triển để chạy trên máy tính cá nhân IBM, với giao diện hoàn toàn bằng văn bản và các lệnh người dùng giản đơn.
Hệ điều hành đầu tiên của Microsoft - PC-DOS 1.0
Những cải tiến tiếp tục được thực hiện, IBM đã liên hệ với công ty Microsoft để cung cấp hệ điều hành cho các máy tính IBM vào thời điểm ban đầu này. Khi đó Gates và Allen đã mua QDOS (quick and dirty operating system) từ Seattle Computer Products và đã điều chỉnh những cần thiết cho hệ thống máy tính mới.
Hệ điều khi đó được gọi là DOS, viết tắt cho cụm từ disk operating system. DOS là một tên chung cho hai hệ điều hành khác nhau. Khi được đóng gói với các máy tính cá nhân IBM, DOS được gọi là PC DOS. Còn khi được bán dưới dạng một gói riêng bởi Microsoft, DOS được gọi là MS-DOS. Tuy nhiên cả hai phiên bản đều có chức năng tương tự nhau.
Hầu hết người dùng PC thế hệ đầu tiên đều phải học để điều hành máy tính của họ bằng DOS. Nhưng hệ điều hành này không thân thiện một chút nào; nó yêu cầu người dùng phải nhớ tất cả các lệnh và sử dụng các lệnh đó để thực hiện hầu hết các hoạt động hàng ngày, chẳng hạn như việc copy các file, thay đổi thư mục,… Ưu điểm chính của DOS là tốc độ và tiêu tốn ít bộ nhớ, đây là hai vấn đề quan trọng khi hầu hết các máy tính chỉ có 640K bộ nhớ.
Windows 1.0
Microsoft tin rằng các máy tính các nhân sẽ trở thành xu thế chủ đạo, chúng phải dễ dàng hơn trong sử dụng, bảo vệ cho sự tin tưởng đó chính là giao diện đồ họa người dùng (GUI) thay cho giao diện dòng lệnh của DOS. Với quan điểm đó, Microsoft đã bắt tay vào thực hiện phiên bản mở đầu của Windows vào năm 1983, và sản phẩm cuối cùng được phát hành ra thị trường vào tháng 11 năm 1985.
Phiên bản đầu tiên của Windows - Windows 1.0
Windows ban đầu được gọi là Interface Manager, và không có gì ngoài một lớp vỏ đồ họa đặt trên hệ điều hành DOS đang tồn tại. Trong khi DOS chỉ là một hệ điều hành sử dụng các lệnh bằng văn bản và gắn chặt với bàn phím thì Windows 1.0 đã hỗ trợ hoạt động kích vào thả của chuột. Tuy nhiên các cửa sổ trong giao diện hoàn toàn cứng nhắc và không mang tính xếp chồng.
Không giống các hệ điều hành sau này, phiên bản đầu tiên của Windows này chỉ có một vài tiện ích sơ đẳng. Nó chỉ có chương trình đồ họa Windows Paint, bộ soạn thảo văn bản Windows Write, bộ lịch biểu, notepad và một đồng hồ. Tuy nhiên thời đó Windows 1.0 cũng có Control Panel, đây là thành phần được sử dụng để cấu hình các tính năng khác cho môi trường, và MS-DOS Executive - kẻ tiền nhiệm cho bộ quản lý file Windows Explorer ngày nay.
Không hề ngạc nhiên vì Windows 1.0 không thành công như mong đợi. Do lúc đó không có nhiều nhu cầu cho một giao diện đồ họa người dùng cho các ứng dụng văn bản cho các máy tính PC của IBM và đây cũng là phiên bản Windows đầu tiên yêu cầu nhiều công xuất hơn các máy tính vào thời đại đó.
Windows 2.0
Phiên bản thứ hai của Windows được phát hành vào năm 1987, đây là phiên bản được cải tiến dựa trên phiên bản Windows 1.0. Phiên bản mới này đã bổ sung thêm các cửa sổ có khả năng xếp chồng nhau và cho phép tối thiểu hóa các cửa sổ để chuyển qua lại trong desktop bằng chuột.
Các cửa sổ xếp chồng của Windows 2.0
Trong phiên bản này, Windows 2.0 đã có trong nó các ứng dụng Word và Excel của Microsoft. Lúc này Word và Excel là các ứng dụng đồ họa cạnh tranh với các đối thủ khi đó WordPerfect và Lotus 1-2-3; các ứng dụng của Microsoft cần một giao diện đồ họa để có thể chạy hợp thức, do đó Microsoft đã tích hợp chúng vào với Windows.
Lúc này không có nhiều ứng dụng tương thích với Windows. Chỉ có một ngoại lệ đáng lưu ý đó là chương trình Aldus PageMaker.
Windows 3.0
Lần thứ ba có tiến bộ hơn các phiên bản trước rất nhiều và đánh dấu một mốc quan trọng trong thương mại. Windows 3.0, phát hành năm 1990, là phiên bản thương mại thành công đầu tiên của hệ điều hành, Microsoft đã bán được khoảng 10 triệu copy trong hai năm trước khi nâng cấp lên 3.1. Đây là phiên bản hệ điều hành đa nhiệm đích thực đầu tiên. Sau sự thành công với Macintosh của Apple, thế giới máy tính cá nhân đã sẵn sàng cho một hệ điều hành đa nhiệm cùng với giao diện đồ họa người dùng.
Phiên bản Windows 3.0
Windows 3.0 là một cải thiện lớn so với các phiên bản trước đây. Giao diện của nó đẹp hơn nhiều với các nút 3D và người dùng có thể thay đổi màu của desktop (tuy nhiên thời điểm này chưa có các ảnh nền - wallpaper). Các chương trình được khởi chạy thông qua chương trình Program Manager mới, và chương trình File Manager mới đã thay thế cho chương trình MS-DOS Executive cũ trong vấn đề quản lý file. Đây cũng là phiên bản đầu tiên của Windows có trò chơi Solitaire trong đó. Một điều quan trọng nữa là Windows 3.0 có một chế độ Protected/Enhanced cho phép các ứng dụng Windows nguyên bản có thể sử dụng bộ nhớ nhiều hơn hệ điều hành DOS của nó.
Sau phát hành Windows 3.0, các ứng dụng được viết cho Windows được phát triển rất rộng rãi trong khi đó các ứng dụng không cho Windows (non-Windows) thì ngược lại. Windows 3.0 đã làm cho các ứng dụng Word và Excel đã đánh bại các đối thủ cạnh tranh khác như WordPerfect, 1-2-3.
Windows 3.1
Windows 3.1, phát hành năm 1992, có thể coi là một nâng cấp cho phiên bản 3.0. Phiên bản này không chỉ có các bản vá lỗi cần thiết mà nó còn là phiên bản đầu tiên mà Windows hiển thị các font TrueType –làm cho Windows trở thành một nền tảng quan trọng cho các máy desktop. Một điểm mới nữa trong Windows 3.1 là bộ bảo vệ màn hình (screensaver) và hoạt động kéo và thả.
Các font TrueType của Windows 3.1
Windows cho các nhóm làm việc (Workgroup)
Cũng được phát hành vào năm 1992, Windows cho các nhóm làm việc (viết tắt là WFW), là phiên bản dùng để kết nối đầu tiên của Windows. Ban đầu được phát triển như một add-on của Windows 3.0, tuy nhiên WFW đã bổ sung thêm các driver và các giao thức cần thiết (TCP/IP) cho việc kết nối mạng ngang hàng. Đây chính là phiên bản WFW của Windows thích hợp với môi trường công ty.
Windows cho các nhóm làm việc – phiên bản kết nối đầu tiên của Windows
Với WFW, các phát hành của Windows được chia thành hai hướng: hướng dành cho khách hàng, được thiết kế dành cho sử dụng trên các máy tính PC riêng lẻ, hiện thân là Windows 3.1 và Windows 95 sắp ra đời, và một hướng là dành cho khối doanh nghiệp, được thiết kế để sử dụng trên các máy tính có kết nối mạng, hiện thân là WFW và Windows NT sắp ra đời.
Windows NT
Phát hành kế tiếp cho khối doanh nghiệp của Windows là Windows NT (từ NT là viết tắt của cụm từ new technology), phiên bản chính thức được phát hành vào năm 1993. Mặc dù vậy NT không phải là một nâng cấp đơn giản cho WFW mà thay vì đó nó là một hệ điều hành 32-bit đúng nghĩa được thiết kế cho các tổ chức có kết nối mạng. (Các phiên bản khách hàng vẫn được duy trì ở các hệ điều hành 16-bit).
Windows NT – phiên bản Windows 32-bit đầu tiên dành cho sử dụng trong khối doanh nghiệp
Windows NT cũng là một thành viên trong hợp tác phát triển hệ điều hành OS/2 của Microsoft với IBM. Tuy nhiên khi mối quan hệ giữa IBM và Microsoft bị đổ vỡ, IBM vẫn tiếp tục với OS/2, trong khi đó Microsoft đã thay đổi tên phiên bản của OS/2 thành Windows NT.
Phục vụ cho khách hàng doanh nghiệp, Windows NT đã có hai phiên bản: Workstation và Server. NT Workstation được dành cho các PC riêng rẽ trên mạng công ty, còn NT Server có nhiệm vụ máy chủ cho tất cả các PC được kết nối với nhau.
Với những khả năng cải thiện về công nghệ kết nối mạng, NT đã trở thành một hệ điều hành chủ đạo cho các máy chủ và máy trạm doanh nghiệp trên toàn thế giới. Nó cũng là cơ sở cho hệ điều hành Windows XP, hệ điều hành sát nhập hai luồng Windows thành một hệ điều hành chung vào năm 2001.
Windows 95
Quay trở lại với hướng khách hàng, Microsoft đã sẵn sàng một phát hành mới vào tháng 8 năm 1995. Phiên bản Windows 95 này có lẽ là phát hành lớn nhất trong số các phát hành Windows.
Windows 95 – phát hành Windows lớn nhất chưa từng có
Có thể khá khó khăn để hình dung lại sau 15 năm, nhưng phát hành Windows 95 là một sự kiện mang tính lịch sử, với việc đưa tin rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng, các khách hàng đã xếp thành những hàng dài bên ngoài các cửa hàng từ nửa đêm để mua được những bản copy đầu tiên của hệ điều hành này.
Tuy nhiên những gì mới thực sự gây choáng? Windows 95 có diện mạo đẹp hơn và khả năng làm việc cũng tốt hơn, cả hai thứ đó đều đạt được mong mỏi của người dùng sau nhiều năm chờ đợi. Đây là một hệ điều hành được viết lại phần lớn và đã cải thiện được giao diện người dùng và đưa Windows sang nền tảng 32-bit giả mạo. (Nhân kernel 16-bit vẫn được giữ lại để có thể tương thích với các ứng dụng cũ).
Windows 95 đã xuất hiện Taskbar, thanh tác vụ này có các nút cho các cửa sổ mở. Nó cũng là phiên bản đầu tiên của Windows có sử dụng nút Start và menu Start; các shortcut trên desktop, kích phải chuột và các tên file dài cũng lần đầu tiên xuất hiện trong phiên bản này.
Một điểm mới nữa trong Windows 95 – mặc dù không có trong phiên bản ban đầu – đó là trình duyệt web Internet Explorer của Microsoft. IE 1.0 lần đầu tiên xuất hiện là trong Windows 95 Plus! Với tư cách một add-on; phiên bản 2.0 có trong Win95 Service Pack 1, gói dịch vụ được phát hành vào tháng 12 năm 1995.
Windows 98
Windows 98, cũng được lấy tên năm phát hành của nó (1998), là một thay đổi mang tính cách mạng so với phiên bản trước đó. Diện mạo bên ngoài của nó đẹp hơn Windows 95 khá nhiều, và thậm chí nó còn có nhiều cải thiện hữu dụng bên trong. Những cải thiện ở đây như sự hỗ trợ cho USB, chia sẻ kết nối mạng và hệ thống file FAT32, tuy tất cả đều những cải thiện này rất đáng giá nhưng không làm cho cả thế giới choáng ngợp như lần ra mắt của Windows 95.
Windows 98
Microsoft đã phát hành phiên bản nâng cấp "Second Edition" của Windows 98 vào năm 1999. Phiên bản này có ít những thay đổi đáng chú ý mà chỉ có hầu hết các bản vá lỗi.
Windows Me
Microsoft phát hành phiên bản Windows Millennium edition vào năm 2000. Windows Me, có lẽ là lỗi lớn nhất của Microsoft, một nâng cấp thứ yếu với rất nhiều lỗi thay vì sửa các lỗi trước đó.
Windows me
Trong phiên bản mới này, Microsoft đã nâng cấp các tính năng Internet và multimedia của Windows 98, bổ sung thêm ứng dụng Windows Movie Maker, giới thiệu tiện ích System Restore – tất cả đều là những ứng dụng tốt. Tuy nhiên điều đáng chú ý nhất trong Windows Me đó là hiện tượng dễ đổ vỡ và hệ thống dễ bị treo. Nguyên nhân này đã làm cho nhiều khách hàng và các doanh nghiệp bỏ qua toàn bộ nâng cấp này.
Windows 2000
Được phát hành gần như đồng thời với phát hành dành cho khách hàng Windows Me, Windows 2000 là một nâng cấp thành công cho khối doanh nghiệp của Microsoft. Kế vị ngay sau Windows NT, Windows 2000 là một sự tiến hóa từ nền tảng cơ bản NT, và vẫn nhắm đến thị trường doanh nghiệp.
Windows 2000 – kẻ kế nhiệm cho Windows NT cho thị trường doanh nghiệp
Không giống như NT, Windows 2000 có hai phiên bản (Workstation và Server), Windows 2000 có đến 5 phiên bản khác nhau: Professional, Server, Advanced Server, Datacenter Server và Small Business Server. Tất cả các phiên bản đều kết hợp chặt chẽ các tính năng từ Windows 95/98 và tạo nên một giao diện đẹp mắt và tinh tế.
Windows XP
Các dòng hệ điều hành khách hàng và doanh nghiệp của Windows đã được nhập thành một với phát hành năm 2001 của Windows XP. Đây là phiên bản đầu tiên mà Microsoft đưa sự tin cậy trong dòng doanh nghiệp ra thị trường khách hàng – và đưa sự thân thiện vào thị trường doanh nghiệp. XP có sự pha trộng tốt nhất giữa các phiên bản Windows 95/98/Me với thao tác 32-bit của Windows NT/2000 và giao diện người dùng được tân trang lại. Về bản chất có thể cho rằng XP là kết hợp giao diện của Windows 95/98/Me vào NT/2000 core, bỏ qua cơ sở mã DOS đã xuất hiện trong các phiên bản khách hàng trước của Windows.
Giao diện thân thiện hơn của Windows XP
Với Windows XP, Microsoft đã bắt đầu phân khúc thị trường bằng một số phiên bản khác nhau, mỗi một phiên bản lại có một tập các tính năng riêng biệt. Các phiên bản khác nhau được phân khúc ở đây gồm có: XP Home Edition, XP Professional (cho người dùng khối doanh nghiệp), XP Media Center Edition, XP Tablet PC Edition, và XP Starter Edition (cho người dùng trong các nước đang phát triển). Tuy nhiều người dùng cảm thấy lộn xộn về sự phân khúc này, nhưng Microsoft dường như lại không quan tâm đến điều đó.
Từ quan điểm của người dùng, XP là một phiên bản đẹp hơn, nhanh hơn so với các phiên bản trước đó Windows 95/98 hoặc Windows 2000. (Nó cũng có độ tin cậy cao hơn so với hệ điều hành Windows Me thất bại trước đó). Giao diện Luna cho bạn thấy đẹp hơn và thân thiện hơn, tính năng Fast User Switching cho phép cùng một máy có thể được chia sẻ dễ dàng với những người dùng khác.
Windows Vista
Được phát hành năm 2007, phiên bản Windows này đã phát triển các tính năng của XP và bổ sung thêm sự bảo mật và độ tin cậy, chức năng truyền thông số được cải thiện và giao diện đồ họa người dùng Aero 3D đẹp mắt.
Giao diện Aero của Windows Vista
Chúng ta hãy bắt đầu với giao diện, để chạy được giao diện nâng cao này đòi hỏi các máy tính phải có cấu hình cao, chính vì lý do này mà Vista bị hạn chế khả năng nâng cấp từ nhiều máy tính cũ. Giao diện Aero hiển thị các thành phần 3D gần như trong suốt và đường bao cửa sổ kiểu kính, bên cạnh đó còn nhiều thứ trong Vista cũng rất khác biệt.
Các biểu tượng thư mục và file hiển thị bằng các thumbnail nội dung của chúng. Khi bạn chuyển giữa các ứng dụng đang mở, Windows sẽ cuộn và xoay vòng để hiển thị theo ngăn xếp 3D. Các cửa sổ trông uyển chuyển hơn, tròn trịa hơn và có tính mờ đục, tăng cảm giác sâu khi bạn xem nhiều cửa sổ trên màn hình. Bên cạnh đó còn có một Sidebar để giữ các Gadget, các ứng dụng nhỏ chuyên dụng cho một nhiệm vụ nào đó.
Bên trong, Vista được thiết kế để chạy an toàn và tráng kiện hơn Windows XP. Tuy nhiên một trong những tính năng bảo mật – người dùng phàn nàn nhiều – là User Account Control, tính năng này góp phần vào làm gián đoạn các hoạt động thông thường của người dùng. Dự định thì tốt (nhằm ngăn chặn không cho truy cập trái phép vào hệ thống), tuy nhiên khi thực thi thì chương trình lại làm cho người dùng tỏ ra rất khó chịu với các cửa sổ đòi hỏi sự cho phép xuất hiện quá nhiều.
Thậm chí tồi tệ hơn, nhiều người dùng gặp phải các vấn đề trong việc nâng cấp thiết bị cũ lên Vista. Nhiều thiết bị ngoại vi cũ không có driver tương thích với Vista (đây có thể coi là một vấn đề với bất cứ nâng cấp Windows nào), tuy nhiên có một số chương trình chạy trên XP không thể làm việc đúng cách trong môi trường Vista.
Chắc hẳn từ những yếu tố không thành công trên của Windows Vista mà Microsoft đã bắt tay vào để phát triển kẻ kế nhiệm cho Vista ngay lập tức – Windows 7 sắp được phát hành.
Windows 7
Phiên bản mới nhất của Windows dự kiến được phát hành vào tháng 10 năm 2009. Đó là quãng thời gian hai năm ngắn ngủ sau khi phát hành Windows Vista, điều đó cũng có nghĩa rằng nó không phải một nâng cấp chủ đạo (không đủ thời gian).
Thay vì đó chúng ta có thể nghĩ về Windows 7 với Windows Vista giống như mối quan hệ của Windows 98 với Windows 95. Nó chỉ là một phát hành thứ yếu, giống một gói dịch vụ hơn là một nâng cấp quy mô lớn.
Taskbar mới trong Windows 7
Người dùng Windows 7 hầu như hài lòng với hệ điều hành mới nhất này của Microsoft, đáng chú ý là nó lại có sức hấp dẫn với người dùng Vista hơn là XP (theo pcworld.com.vn). Có khoảng 615 người đã tham gia trả lời tại trang web Technologizer. Phần lớn họ đều cảm thấy rất hài lòng với HĐH mới, kể cả người dùng Windows XP lẫn số đông dùng Windows Vista đều công nhận những cải tiến đáng kể của Windows 7. Những rắc rối lê thê trong tiến trình cài đặt thường là lý do chính khiến người dùng chùn bước khi chuyển sang HĐH khác thì nay hiếm xảy ra trên Windows 7.
Trước khi sử dụng Windows 7, 46% người được hỏi đã dùng Windows Vista, 32% dùng XP, 17% dùng cả Vista lẫn XP, 5% chạy HĐH không phải Windows và 0,7% chạy phiên bản Windows khác.
Trong số người khảo sát, có 73% người dùng theo dạng nâng cấp lên Windows 7 còn 8% sử dụng HĐH được cài sẵn, 14% chạy trên phiên bản thử nghiệm và 6% chạy trên Mac thông qua phần mềm Boot Camp của Apple hoặc dùng chương trình ảo hóa.
Xét đến mức độ am hiểu về Windows, 64% người trả lời tự nhận là chuyên gia, 35% ở mức sử dụng thông thường và dưới 1% là người mới bắt đầu làm quen. Có 61% người sử dụng Windows 7 cho cá nhân và gia đình, 25% dùng cho gia đình cũng như doanh nghiệp, chỉ 14% sử dụng hoàn toàn cho doanh nghiệp.
Cũng vậy, có 61% người trả lời là dùng bản 64-bit của Windows 7, chỉ 31% chạy bản 32-bit.
Đại đa số người dùng đã chọn cài đặt mới hoàn toàn, chiếm 82%, 19% cài Windows 7 đè lên Vista.
Cuối cùng, 59% người dùng liên tục sử dụng Windows 7, 36% ở mức khá và chỉ 5% là ít dùng.
Cần lưu ý là mục đích của cuộc khảo sát này không phải đưa ra một đánh giá chung, ý kiến chung nhất cho hết thảy người dùng Windows 7 mà bài viết chỉ tổng hợp ý kiến của nhóm người dùng trên trang Technologizer được khảo sát mà thôi. Ý kiến của họ mang tính chủ quan nhưng kết quả có được khá thú vị.
Vậy có những gì thay đổi trong Windows 7? Đầu tiên, phát hành này sẽ thay đổi những gì mà người dùng không thích trong Windows Vista. Phần cứng cũ và phần mềm cũ tương thích nhiều hơn, và thậm chí còn có cả tính năng Windows XP Mode cho phép chạy các ứng dụng trong thời đại XP trong môi trường nguyên bản của Windows 7. User Account Control cũng được cải thiện nhiều hơn để giảm bớt sự gián đoạn gây khó chịu đối với người dùng.
Tiếp đến, Windows 7 còn có một số thay đổi về mặt giao diện. Sidebar bị bỏ đi và thay vào đó bạn có thể đặt các Gadget trực tiếp lên desktop. Bên cạnh là chế độ Aero Peek mới cho phép bạn nhìn “đằng sau” tất cả các cửa sổ mở để thấy những gì bên dưới desktop, cũng như các hoạt động Aero Snaps mới cho phép bạn dễ dàng di chuyển và cực đại hóa các cửa sổ.
Mặc dù vậy thay đổi lớn nhất lại rơi vào taskbar, một dải cố định trên màn hình xuất hiện lần đầu tiên trong Windows 95. Taskbar mới trong Windows 7 cho phép bạn dock (neo đậu) cả các cửa sổ đang mở và các ứng dụng lẫn tài liệu ưa thích của bạn. Kích chuột phải vào một nút của taskbar, bạn sẽ thấy một Jump List các tài liệu gần đây và các hoạt động hữu dụng khác; đưa chuột qua nút taskbar, bạn sẽ thấy một ứng dụng đang mở và bạn thumbnail của tất cả các tài liệu. Có thể nói Windows 7 thay đổi cách bạn thực hiện trong nhiều thứ, tuy nhiên được nhiều người nhận định là những cách mang tính tích cực.
Windows 8
Hệ điều hành thế hệ 8 của Microsoft là phiên bản Windows hoàn toàn mới từ phần lõi tới giao diện và được thiết kế cho màn hình cảm ứng.
Windows 8 "Metro" Interface Start Screen
Windows 8 "Metro" Interface Start Screen
Tại sự kiện All Things D ở Mỹ, Microsoft đã trình diễn những đặc điểm mới của Windows 8. Một trong những nét nổi bật là các ứng dụng được thể hiện ngay trên màn hình khởi động Start dưới dạng các cửa sổ nhỏ giống như Windows Phone 7, thay thế cho Menu quen thuộc của Windows Start.
Các ứng dụng xếp trên màn hình đều có hiển thị thông báo và luôn cập nhật thông tin mới nhất cho người sử dụng. Họ có thể kéo, thả và thay đổi kích cỡ ứng dụng hoặc đặt chúng tại các cạnh của màn hình tùy theo nhu cầu.
Dù giao diện được thiết kế cho cảm ứng, Windows 8 cũng tương tác tốt với chuột và bàn phím. Windows 8 có khả năng khởi động siêu tốc từ chế độ nghỉ (sleep), chuyển đổi giữa các ứng dụng nhanh, tích hợp sẵn trình duyệt Internet Explorer 10 với công nghệ Silverlight và phần mềm văn phòng Office 365.
Windows 8 Lockscreen
Windows 8 Control Panel
Standard On-Screen Touch Keyboard
News Reading Application
Video Settings Overlay
Search Your Computer, Apps and the Web
Image Files
Microsoft cho biết Windows 8 là hệ điều hành nhiều cải tiến nhất kể từ Windows 95 (được ra mắt 16 năm trước). Nền tảng này hoạt động trên máy tính bảng dùng chip x86 của Intel và AMD. Tập đoàn phần mềm Mỹ khẳng định sẽ hỗ trợ cả chip ARM bao gồm các hãng sản xuất Nvidia, TI, Qualcomm.
Cũng trong khuôn khổ hội thảo, Microsoft giới thiệu cách thức giúp các nhà phát triển ứng dụng xây dựng các phần mềm mới cho hệ thống Windows 8, tận dụng sức mạnh của HTML5 và JavaScript.
Ngày phát hành Windows 8 chưa được công bố. Thiết bị đầu tiên chạy hệ điều hành này dự kiến sẽ được xuất xưởng cuối năm nay hoặc đầu năm 2012.
nguyenvanlinheban (I11C)- Tổng số bài gửi : 10
Join date : 12/09/2011
Thảo luận bài 1
Khái niệm HDH
- Hệ điều hành là một hệ thống các chương trình hoạt động giữa người sử dụng (user) và phần cứng của máy tính. Mục tiêu của hệ điều hành là cung cấp một môi trường để người sử dụng có thể thi hành các chương trình. Nó làm cho máy tính dễ sử dụng hơn, thuận lợi hơn và hiệu quả hơn.
- Hệ điều hành là một phần quan trọng của hầu hết các hệ thống máy tính. Một hệ thống máy tính thường được chia làm bốn phần chính : phần cứng, hệ điều hành, các chương trình ứng dụng và người sử dụng.
- Hệ điều hành điều khiển và phối hợp việc sử dụng phần cứng cho những ứng dụng khác nhau của nhiều người sử dụng khác nhau. Hệ điều hành cung cấp một môi trường mà các chương trình có thể làm việc
Lịch sử phát triển của HDH
- HDH được chia làm 4 giai đoạn
- Thế hệ 1 (1945 – 1955)
- Thế hệ 2 (1955 – 1965)
- Thế hệ 3 (1965 – 1980)
- Thế hệ 4 (1980 - nay)
Các thành phần của HDH
- a) Quản lý tiến trình
- b) Quản lý bộ nhớ chính
- c) Quản lý bộ nhớ phụ
- d) Quản lý hệ thống vào/ ra
- e) Quản lý hệ thống tập tin
- f) Hệ thống bảo vệ
- g) Hệ thống thông dịch lệnh
Cấu trúc HDH
- a) Cấu trúc đơn giản
- b) Cấu trúc phân lớp
- c) Máy ảo
- d) Vi nhân (Microkernels)
Các tính chất cơ bản của HDH
- a) Tin cậy
- b) An toàn
- c) Hiệu quả
- d) Tổng quát theo thời gian
- e) Thuận tiện
Nguyên lý xây dựng chương trình HĐH
- a) Module
- b) Nguyên tắc tương đối trong định vị
- c) Nguyên tắc Macroproccessor
- d) Nguyên tắc khởi tạo trong cài đặt
- e) Nguyên tắc lập chức năng
- f) Nguyên tắc giá trị chuẩn
- g) Nguyên tắc bảo vệ nhiều mức
Mục tiêu của HDH
- Giới thiệu chung về kiến thức hệ thống máy tính, chức năng và kiến trúc hệ điều hành; Tầng vật lý và lập trình các cơ chế ở mức thấp; Tiến trình lập trình; Các tiến trình song song, đồng bộ; Truyền thông giữa các tiến trình; Quản lý tiến trình; Điều độ hệ thống tiến trình; Hệ thống đa chương trình, đa người sử dụng; Quản lý bộ nhớ, file, quản lý nhập/xuất; Tổ chức hệ thống bảo vệ và an toàn thông tin hệ điều hành phân tán và hệ điều hành mạng; Nghiên cứu các trường hợp (phần tự chọn): Windows 2k, UNIX, LINUX.[img][/img][img][/img]
- Hệ điều hành là một hệ thống các chương trình hoạt động giữa người sử dụng (user) và phần cứng của máy tính. Mục tiêu của hệ điều hành là cung cấp một môi trường để người sử dụng có thể thi hành các chương trình. Nó làm cho máy tính dễ sử dụng hơn, thuận lợi hơn và hiệu quả hơn.
- Hệ điều hành là một phần quan trọng của hầu hết các hệ thống máy tính. Một hệ thống máy tính thường được chia làm bốn phần chính : phần cứng, hệ điều hành, các chương trình ứng dụng và người sử dụng.
- Hệ điều hành điều khiển và phối hợp việc sử dụng phần cứng cho những ứng dụng khác nhau của nhiều người sử dụng khác nhau. Hệ điều hành cung cấp một môi trường mà các chương trình có thể làm việc
Lịch sử phát triển của HDH
- HDH được chia làm 4 giai đoạn
- Thế hệ 1 (1945 – 1955)
- Thế hệ 2 (1955 – 1965)
- Thế hệ 3 (1965 – 1980)
- Thế hệ 4 (1980 - nay)
Các thành phần của HDH
- a) Quản lý tiến trình
- b) Quản lý bộ nhớ chính
- c) Quản lý bộ nhớ phụ
- d) Quản lý hệ thống vào/ ra
- e) Quản lý hệ thống tập tin
- f) Hệ thống bảo vệ
- g) Hệ thống thông dịch lệnh
Cấu trúc HDH
- a) Cấu trúc đơn giản
- b) Cấu trúc phân lớp
- c) Máy ảo
- d) Vi nhân (Microkernels)
Các tính chất cơ bản của HDH
- a) Tin cậy
- b) An toàn
- c) Hiệu quả
- d) Tổng quát theo thời gian
- e) Thuận tiện
Nguyên lý xây dựng chương trình HĐH
- a) Module
- b) Nguyên tắc tương đối trong định vị
- c) Nguyên tắc Macroproccessor
- d) Nguyên tắc khởi tạo trong cài đặt
- e) Nguyên tắc lập chức năng
- f) Nguyên tắc giá trị chuẩn
- g) Nguyên tắc bảo vệ nhiều mức
Mục tiêu của HDH
- Giới thiệu chung về kiến thức hệ thống máy tính, chức năng và kiến trúc hệ điều hành; Tầng vật lý và lập trình các cơ chế ở mức thấp; Tiến trình lập trình; Các tiến trình song song, đồng bộ; Truyền thông giữa các tiến trình; Quản lý tiến trình; Điều độ hệ thống tiến trình; Hệ thống đa chương trình, đa người sử dụng; Quản lý bộ nhớ, file, quản lý nhập/xuất; Tổ chức hệ thống bảo vệ và an toàn thông tin hệ điều hành phân tán và hệ điều hành mạng; Nghiên cứu các trường hợp (phần tự chọn): Windows 2k, UNIX, LINUX.[img][/img][img][/img]
HuynhVanNhut (I11C)- Tổng số bài gửi : 12
Join date : 07/09/2011
Phân biệt file server và client server?
Phân biệt File-Server và Client-Server
Trả lời :
- File-Server:
+ File-Server Là máy chủ không tính toán nhiều, chỉ làm dịch vụ tập tin cho máy khác.
- Client-Server :
+ Mô hình Client-Server là một mô hình được sử dụng rộng rãi trong mạng máy tính. Ý tưởng của mô hình này là máy con (đóng vài trò là máy khách) gửi một yêu cầu để máy chủ (đóng vai trò người cung ứng dịch vụ), máy chủ sẽ xử lý và trả kết quả về cho máy khách.
Trả lời :
- File-Server:
+ File-Server Là máy chủ không tính toán nhiều, chỉ làm dịch vụ tập tin cho máy khác.
- Client-Server :
+ Mô hình Client-Server là một mô hình được sử dụng rộng rãi trong mạng máy tính. Ý tưởng của mô hình này là máy con (đóng vài trò là máy khách) gửi một yêu cầu để máy chủ (đóng vai trò người cung ứng dịch vụ), máy chủ sẽ xử lý và trả kết quả về cho máy khách.
Nguyenminhduc (I11C)- Tổng số bài gửi : 18
Join date : 07/09/2011
Ưu điểm và nhược điểm của hệ điều hành quản lý tài nguyên nhiều tầng?
Hệ điều hành quản lỳ tài nguyên nhiều tầng:
+ Ưu điểm:chia nhỏ dễ quản lý,đảm bảo tính bảo mật cao.Đối với mạng có nhiều người tham gia thi mô hình quản lý này đảm bảo tính linh hoạt và quan trong hơn là khó bị đánh cắp tài nguyên vì tính bảo mật cao.
+ Nhược điểm:Đối với mạng lớn, có quá nhiều tài nguyên có saün trên mạng làm cho các người sử dụng khó xác định chúng để khai thác.Người sử dụng muốn chia sẻ tài nguyên thường sử dụng một cách dễ hơn để chia sẻ tài nguyên chỉ với một số hạn chế người sử dụng khác.
+ Ưu điểm:chia nhỏ dễ quản lý,đảm bảo tính bảo mật cao.Đối với mạng có nhiều người tham gia thi mô hình quản lý này đảm bảo tính linh hoạt và quan trong hơn là khó bị đánh cắp tài nguyên vì tính bảo mật cao.
+ Nhược điểm:Đối với mạng lớn, có quá nhiều tài nguyên có saün trên mạng làm cho các người sử dụng khó xác định chúng để khai thác.Người sử dụng muốn chia sẻ tài nguyên thường sử dụng một cách dễ hơn để chia sẻ tài nguyên chỉ với một số hạn chế người sử dụng khác.
Nguyenminhduc (I11C)- Tổng số bài gửi : 18
Join date : 07/09/2011
Tại sao HĐH có cách tổ chức khác nhau nhưng nhiệm vụ của mỗi HĐH thì giống nhau?
Vấn đề đặt ra ở đây là: Không phải tất cả máy tính đều có HĐH. Máy tính điều khiển lò vi sóng trong bếp của bạn là một ví dụ không cần đến HĐH. Nó chỉ có nhiệm vụ cài sẵn, nhập vào trực tiếp và đơn giản (với các phím số và nút) không cần thay đổi phần cứng để điều khiển. Có hàng trăm HĐH phù hợp với các ứng dụng có mục đích đặc biệt bao gồm chuyên môn hoá cho máy tính lớn, robot, sản xuất, hệ thống kiểm soát thời gian thực v.v.
Ở mức độ đơn giản nhất HĐH làm hai việc:
Thứ nhất: nó quản lý tài nguyên phần cứng và phần mềm của hệ thống. Trong máy tính cá nhân, những tài nguyên này bao gồm bộ xử lý, bộ nhớ, khoảng trống trên đĩa,…( trong điện thoại di động bao gồm phím số, màn hình, số địa chỉ, quay số điện thoại, pin và kết nối mạng.). Với những công việc trên, HĐH đóng vai trò như những bậc cha mẹ tốt đảm bảo mỗi ứng dụng có được tài nguyên cần thiết trong khi vẫn chạy các ứng dụng khác, cũng như khéo léo sử dụng các khả năng hạn chế của hệ thống ở mức tốt nhất cho tất cả người sử dụng và những ứng dụng.
Thứ hai: Nó cung cấp cách ổn định và phù hợp cho các ứng dụng xử lý phần cứng mà không cần biết tất cả các chi tiết của phần cứng. Giả sử có nhiều hơn một loại máy tính sử dụng HĐH hoặc nếu phần cứng tạo nên máy tính thay đổi, HĐH vẫn có thể đảm bảo các ứng dụng có thể tiếp tục chạy khi nâng cấp phần cứng và cập nhật. Bởi vì HĐH chứ không phải các ứng dụng chịu trách nhiệm quản lý phần cứng và phân phối các tài nguyên. Một trong những thách thức mà nhà phát triển đối mặt đó là giữ cho HĐH đủ linh hoạt để chạy phần cứng trong số hàng nghìn các nhà cung cấp sản xuất thiết bị máy tính. Hệ thống ngày nay có thể thích nghi với hàng nghìn máy in khác nhau, ổ đĩa và các thiết bị ngoại vi đặc biệt trong bất kỳ liên kết nào.
Vậy ta thấy HĐH có cách tổ chức khác nhau nhưng nhiệm vụ của mỗi HĐH thì giống nhau.
Ở mức độ đơn giản nhất HĐH làm hai việc:
Thứ nhất: nó quản lý tài nguyên phần cứng và phần mềm của hệ thống. Trong máy tính cá nhân, những tài nguyên này bao gồm bộ xử lý, bộ nhớ, khoảng trống trên đĩa,…( trong điện thoại di động bao gồm phím số, màn hình, số địa chỉ, quay số điện thoại, pin và kết nối mạng.). Với những công việc trên, HĐH đóng vai trò như những bậc cha mẹ tốt đảm bảo mỗi ứng dụng có được tài nguyên cần thiết trong khi vẫn chạy các ứng dụng khác, cũng như khéo léo sử dụng các khả năng hạn chế của hệ thống ở mức tốt nhất cho tất cả người sử dụng và những ứng dụng.
Thứ hai: Nó cung cấp cách ổn định và phù hợp cho các ứng dụng xử lý phần cứng mà không cần biết tất cả các chi tiết của phần cứng. Giả sử có nhiều hơn một loại máy tính sử dụng HĐH hoặc nếu phần cứng tạo nên máy tính thay đổi, HĐH vẫn có thể đảm bảo các ứng dụng có thể tiếp tục chạy khi nâng cấp phần cứng và cập nhật. Bởi vì HĐH chứ không phải các ứng dụng chịu trách nhiệm quản lý phần cứng và phân phối các tài nguyên. Một trong những thách thức mà nhà phát triển đối mặt đó là giữ cho HĐH đủ linh hoạt để chạy phần cứng trong số hàng nghìn các nhà cung cấp sản xuất thiết bị máy tính. Hệ thống ngày nay có thể thích nghi với hàng nghìn máy in khác nhau, ổ đĩa và các thiết bị ngoại vi đặc biệt trong bất kỳ liên kết nào.
Vậy ta thấy HĐH có cách tổ chức khác nhau nhưng nhiệm vụ của mỗi HĐH thì giống nhau.
ThanhThao04(I11C)- Tổng số bài gửi : 34
Join date : 31/08/2011
Đến từ : Phú Yên
Bổ sung “HĐH là bộ quản lý tài nguyên (Resource Manager)"
- Thứ nhất: HĐH đáp ứng các yêu cầu sử dụng tài nguyên thiết bị như CPU, bộ nhớ trong, các thiết bị ngoại vi, ổ đĩa, card mạng,...nguyenthingocloan (I11C) đã viết:Hệ điều hành là một phần mềm chạy trên máy tính, dùng để điều hành, quản lý các thiết bị phần cứng và các tài nguyên phần mềm trên máy tính.
Hệ điều hành đóng vai trò trung gian trong việc giao tiếp giữa người sử dụng và phần cứng máy tính, cung cấp một môi trường cho phép người sử dụng phát triển và thực hiện các ứng dụng của họ một cách dễ dàng.
- Thứ hai: HĐH đứng ra làm trung gian để người sử dụng sử dụng các tài ngyên.
Ví dụ: máy chiếu dùng để chiếu slide bài giảng => máy chiếu là tài nguyên. Chúng ta mượn máy chiếu ở phòng Đào Tạo => phòng Đào Tạo phải quản lý tài nguyên và đáp ứng yêu cầu của lớp học, môn học. Trường hợp có nhiều lớp học cần máy chiếu nhưng hết máy chiếu thì các lớp học có thể dùng chung để chia sẻ máy chiếu giữa các lớp.
- Thứ ba: Trong trường hợp nhiều chương trình, nhiều người dùng cùng chia sẻ các tài nguyên => như vậy HĐH phải giải quyết tranh chấp có thể xảy ra và đứng ra làm trung gian điều phối sao cho tài nguyên được sử dụng đứng thứ tự, dùng xong lại được cấp cho đối tượng khác sử dụng.
ví dụ tình hưống sau: 3 chương trình cùng in ra một máy in duy nhất. Khó chấp nhận trường hợp một trang in xen kẽ nhiều kết quả từ nhiều nguồn khác nhau. HĐH giải quyết bằng cách đưa kết quả in của mỗi chương trình tạm thời ra đĩa cứng, sau đó lần lượt in từ đĩa vào thời điểm thích hợp.
ThanhThao04(I11C)- Tổng số bài gửi : 34
Join date : 31/08/2011
Đến từ : Phú Yên
Phân biệt Hệ đa chương và Hệ chia thời gian
Giống : đều là hệ đa chương (thực hiện nhiều tác vụ cùng một lúc)
Khác :
+ Hệ đa chương : tiến trình sẽ được thực hiện lần lượt hết tiến trình này thì làm qua tiến trình khác
+ Hệ chia thời gian : mỗi tiến trình sẽ được thực thi trong một khoảng thời gian nhất định sau đó nó sẽ thực hiện tiến trình khác. Sau một khoảng thời gian tiếp theo nó sẽ tạm dừng tiến trình đang làm để thực thi tiến trình tiếp theo nữa.
Ví dụ :
+ Hệ đa chương : một người có thề nhận được nhiều cuộc gọi tới nhưng một lần người đó chỉ nói được với một người duy nhất. Nói xong người này phải kết thúc cuộc gọi khi đó điện thoại sẽ connect với người gọi đã gọi cho bạn vừa nảy.
+ Hệ chia thời gian : một người phục vụ trong nhà hàng trong một khoảng thời gian người đó có thể phục vụ cho nhiều bàn mỗi bàn được phục vụ trong một khoảng thời gian nhất định... ví dụ: bàn 1 gọi món, người phục vụ sẽ ghi lại thông tin các món ăn và đưa cho nhà bếp, sau đó qua tiếp bàn 2 cho người khác gọi món. Rồi vào nhà bếp đặt món ăn, và mang món ăn bàn 1 phục vụ cho khách hàng
Khác :
+ Hệ đa chương : tiến trình sẽ được thực hiện lần lượt hết tiến trình này thì làm qua tiến trình khác
+ Hệ chia thời gian : mỗi tiến trình sẽ được thực thi trong một khoảng thời gian nhất định sau đó nó sẽ thực hiện tiến trình khác. Sau một khoảng thời gian tiếp theo nó sẽ tạm dừng tiến trình đang làm để thực thi tiến trình tiếp theo nữa.
Ví dụ :
+ Hệ đa chương : một người có thề nhận được nhiều cuộc gọi tới nhưng một lần người đó chỉ nói được với một người duy nhất. Nói xong người này phải kết thúc cuộc gọi khi đó điện thoại sẽ connect với người gọi đã gọi cho bạn vừa nảy.
+ Hệ chia thời gian : một người phục vụ trong nhà hàng trong một khoảng thời gian người đó có thể phục vụ cho nhiều bàn mỗi bàn được phục vụ trong một khoảng thời gian nhất định... ví dụ: bàn 1 gọi món, người phục vụ sẽ ghi lại thông tin các món ăn và đưa cho nhà bếp, sau đó qua tiếp bàn 2 cho người khác gọi món. Rồi vào nhà bếp đặt món ăn, và mang món ăn bàn 1 phục vụ cho khách hàng
LeMinhDuc (I11C)- Tổng số bài gửi : 39
Join date : 26/08/2011
Sở dĩ các nước phương tây cung cấp mã nguồn mỡ vì:
Nó sẽ lảm cho người khác chỉ biết áp dụng, không biết nghiên cứu, chỉ chế nó và lệ thuộc vào nó.
Khi chúng ta sản xuất 1 phần mềm mà dựa vào mã nguồn mỡ thì chỉ sử dụng miễn phí. Hay khi kinh doanh thì phải xin phép hay phải chia lợi nhuận với họ.
Họ luôn luôn ở thế độc quyền về sản xuất và khinh doanh những phần mềm do ho sản xuất ra dù họ cung cấp mã nguồn.
Khi họ cung cấp những mã nguồn thì gián tiếp họ đã làm cho những mã nguồn đó là bản quyền của họ.
Việc cung cấp mã nguồn thì có ích cho chúng ta trong việc học tập cũng như trong lập trình vì đã có mã nguồn sẳn. Bên cạnh đó cũng hạn chế rất nhiều sự sáng tạo của chúng ta vì chúng ta ít nhiều cũng dựa vào cái họ đã xây dựng nó.
Khi chúng ta sản xuất 1 phần mềm mà dựa vào mã nguồn mỡ thì chỉ sử dụng miễn phí. Hay khi kinh doanh thì phải xin phép hay phải chia lợi nhuận với họ.
Họ luôn luôn ở thế độc quyền về sản xuất và khinh doanh những phần mềm do ho sản xuất ra dù họ cung cấp mã nguồn.
Khi họ cung cấp những mã nguồn thì gián tiếp họ đã làm cho những mã nguồn đó là bản quyền của họ.
Việc cung cấp mã nguồn thì có ích cho chúng ta trong việc học tập cũng như trong lập trình vì đã có mã nguồn sẳn. Bên cạnh đó cũng hạn chế rất nhiều sự sáng tạo của chúng ta vì chúng ta ít nhiều cũng dựa vào cái họ đã xây dựng nó.
lamhuubinh(I91C)- Tổng số bài gửi : 34
Join date : 28/08/2011
Vai Trò Của Hệ Điều Hành
Không phải tất cả các máy tính đều có hệ điều hành . Máy tính điều khiển lò vi sóng trong bếp của bạn là một ví dụ không cần đến hệ điều hành.Nó chỉ có các nhiệm vụ cài sẵn, nhập vào trực tiếp và đơn giản ( với các phím số và nút ) không cần thay đổi phần cứng để điều khiển. Đối với máy tính cũng như vậy thì mà không dùng hệ điều hành chỉ làm cho chi phí phát triển và sản xuất phần cứng cao hơn và làm cho thiết bị phức tạp thêm mà không cần thiết. Thay vào đó, máy tính trong lò vi sóng chỉ cần chạy chương trình đơn giản và không thay đổi .
Đối với các thiết bị khác, hệ điều hành được dùng để:
•Phục vụ những mục đích khác nhau
•Tương tác với người sử dụng theo những cách phức tạp hơn
•Theo kịp nhu cầu thay đổi theo thời gian.
Tất cả các máy tính để bàn đều có hệ điều hành. Hệ điều hành phổ biến là gia đình hệ điều hành Window được phát triển bởi hãng Microsoft, hệ điều hành Macintosh phát triển bởi Apple và gia đình hệ điều hành UNIX( được phát triển bởi các cá nhân, tập đoàn và cộng tác viên). Có hàng trăm hệ điều hành phù hợp với các ứng dụng có mục đích đặc biệt bao gồm chuyên môn hoá cho máy tính lớn, robot, sản xuất , hệ thống kiểm soát thời gian thực...
*Ở mức độ đơn giản nhất, hệ điều hành làm hai việc:
1.Nó quản lý tài nguyên phần cứng và phần mềm của hệ thống. Trong máy tính cá nhân, những tài nguyên này bao gồm bộ xử lý, bộ nhớ, khoảng trống trên đĩa,...( trong điện thoại di động chúng bao gồm phím số, màn hình, sổ địa chỉ, quay số điện thoại, pin và kết nối mạng.)
2.Nó cung cấp cách ổn định và phù hợp cho các ứng dụng xử lý phần cứng mà không cần biết tất cả các chi tiết của phần cứng.
Nhiệm vụ thứ nhất, quản lý tài nguyên phần cứng và phần mềm, là rất quan trọng , các chương trình khác nhau và cách nhập dữ liệu khác nhau cạnh tranh để có được sự điều khiển của CPU và đưa ra những yêu cầu về bộ nhớ, lưu trữ và dải thông hệ thống vào ra ( I/O ) vì những mục đích riêng . Với những công việc trên, hệ điều hành đóng vai trò như những bậc cha mẹ tốt đảm bảo mỗi ứng dụng có được tài nguyên cần thiết trong khi vẫn chạy các ứng dụng khác, cũng như khéo léo sử dụng các khả năng hạn chế của hệ thống ở mức tốt nhất cho tất cả người sử dụng và những ứng dụng.
Nhiệm vụ thứ hai , cung cấp giao diện ứng dụng thích hợp , là đặc biệt quan trọng nếu có nhiều hơn một loại máy tính sử dụng hệ điều hành hoặc nếu phần cứng tạo nên máy tính thay đổi. Một hệ giao chương trình ứng dụng (API) thích hợp cho phép nhà phát triển phần mềm viết ứng dụng trên một máy tính và có độ tương thích cao để chạy trên máy tính khác cùng loại, thậm chí nếu dung lượng bộ nhớ hay dung lượng lưu trữ của hai máy khác nhau.
Đối với các thiết bị khác, hệ điều hành được dùng để:
•Phục vụ những mục đích khác nhau
•Tương tác với người sử dụng theo những cách phức tạp hơn
•Theo kịp nhu cầu thay đổi theo thời gian.
Tất cả các máy tính để bàn đều có hệ điều hành. Hệ điều hành phổ biến là gia đình hệ điều hành Window được phát triển bởi hãng Microsoft, hệ điều hành Macintosh phát triển bởi Apple và gia đình hệ điều hành UNIX( được phát triển bởi các cá nhân, tập đoàn và cộng tác viên). Có hàng trăm hệ điều hành phù hợp với các ứng dụng có mục đích đặc biệt bao gồm chuyên môn hoá cho máy tính lớn, robot, sản xuất , hệ thống kiểm soát thời gian thực...
*Ở mức độ đơn giản nhất, hệ điều hành làm hai việc:
1.Nó quản lý tài nguyên phần cứng và phần mềm của hệ thống. Trong máy tính cá nhân, những tài nguyên này bao gồm bộ xử lý, bộ nhớ, khoảng trống trên đĩa,...( trong điện thoại di động chúng bao gồm phím số, màn hình, sổ địa chỉ, quay số điện thoại, pin và kết nối mạng.)
2.Nó cung cấp cách ổn định và phù hợp cho các ứng dụng xử lý phần cứng mà không cần biết tất cả các chi tiết của phần cứng.
Nhiệm vụ thứ nhất, quản lý tài nguyên phần cứng và phần mềm, là rất quan trọng , các chương trình khác nhau và cách nhập dữ liệu khác nhau cạnh tranh để có được sự điều khiển của CPU và đưa ra những yêu cầu về bộ nhớ, lưu trữ và dải thông hệ thống vào ra ( I/O ) vì những mục đích riêng . Với những công việc trên, hệ điều hành đóng vai trò như những bậc cha mẹ tốt đảm bảo mỗi ứng dụng có được tài nguyên cần thiết trong khi vẫn chạy các ứng dụng khác, cũng như khéo léo sử dụng các khả năng hạn chế của hệ thống ở mức tốt nhất cho tất cả người sử dụng và những ứng dụng.
Nhiệm vụ thứ hai , cung cấp giao diện ứng dụng thích hợp , là đặc biệt quan trọng nếu có nhiều hơn một loại máy tính sử dụng hệ điều hành hoặc nếu phần cứng tạo nên máy tính thay đổi. Một hệ giao chương trình ứng dụng (API) thích hợp cho phép nhà phát triển phần mềm viết ứng dụng trên một máy tính và có độ tương thích cao để chạy trên máy tính khác cùng loại, thậm chí nếu dung lượng bộ nhớ hay dung lượng lưu trữ của hai máy khác nhau.
lamhuubinh(I91C)- Tổng số bài gửi : 34
Join date : 28/08/2011
Phân loại Hệ Điều Hành
Hệ điều hành nhìn chung có 4 loại được phân loại dựa trên loại máy tính mà nó điều khiển và loại ứng dụng mà nó hỗ trợ. Bao gồm các loại sau:
1.Hệ điều hành thời gian thực (RTOS)- Hệ điều hành thời gian thực được dùng để điều khiển máy, các thiết bị khoa học và hệ thống công nghiệp. Một RTOS điển hình có rất ít khả năng giao diện cho người sử dụng và không có những ứng dụng thông thường vì hệ thống chỉ là một cái hộp đóng kín . Một nhiệm vụ quan trọng của RTOS là quản lý tài nguyên của máy tính để một quá trình hoạt động có thể diễn ra trong khoảng thời gian chính xác mỗi khi nó xuất hiện. Trong máy phức tạp, có phần chuyển động nhanh thì hệ thống tài nguyên phải luôn luôn sẵn sàng , nó sẽ là thảm hoạ nếu không chuyển động vì một nguyên nhân nào đó hệ thống bị bận .
2.Một người sử dụng, đơn nhiệm- Như cái tên của nó, hệ điều hành này được thiết kế để quản lý máy tính sao cho một người sử dụng có thể làm một việc hiệu quả một lúc. Hệ điều hành Palm cho các máy tính cầm tay là một ví dụ cho hệ điều hành một người sử dụng, đơn nhiệm.
3.Một người sử dụng, đa nhiệm- Đây là hệ điều hành mà hầu hết mọi người sử dụng trong máy tính để bàn và máy tính xách tay hiện nay. Window của Microsoft và nền tảng MacOS của Apple là hai ví dụ cho hệ điều hành cho phép một người sử dụng chạy nhiều chương trình cùng một lúc. Ví dụ như nó cho phép người sử dụng Window ghi chép trong bộ xử lý word trong khi tải một file từ Internet và in một văn bản của tin nhắn e-mail.
4.Nhiều người sử dụng- Một hệ điều hành nhiều người sử dụng cho phép nhiều người sử dụng khác nhau dùng tài nguyên của máy tính cùng một lúc. Hệ điều hành phải đảm bảo rằng yêu cầu của những người sử dụng khác nhau được cân bằng, và mỗi chương trình mà họ sử dụng có tài nguyên riêng và đầy đủ để vấn đề của mỗi người sử dụng không ảnh hưởng đến cộng đồng người sử dụng. Hệ điều hành Unix, VMS và Mainframe như MVS là những ví dụ cho hệ điều hành nhiều người sử dụng.
1.Hệ điều hành thời gian thực (RTOS)- Hệ điều hành thời gian thực được dùng để điều khiển máy, các thiết bị khoa học và hệ thống công nghiệp. Một RTOS điển hình có rất ít khả năng giao diện cho người sử dụng và không có những ứng dụng thông thường vì hệ thống chỉ là một cái hộp đóng kín . Một nhiệm vụ quan trọng của RTOS là quản lý tài nguyên của máy tính để một quá trình hoạt động có thể diễn ra trong khoảng thời gian chính xác mỗi khi nó xuất hiện. Trong máy phức tạp, có phần chuyển động nhanh thì hệ thống tài nguyên phải luôn luôn sẵn sàng , nó sẽ là thảm hoạ nếu không chuyển động vì một nguyên nhân nào đó hệ thống bị bận .
2.Một người sử dụng, đơn nhiệm- Như cái tên của nó, hệ điều hành này được thiết kế để quản lý máy tính sao cho một người sử dụng có thể làm một việc hiệu quả một lúc. Hệ điều hành Palm cho các máy tính cầm tay là một ví dụ cho hệ điều hành một người sử dụng, đơn nhiệm.
3.Một người sử dụng, đa nhiệm- Đây là hệ điều hành mà hầu hết mọi người sử dụng trong máy tính để bàn và máy tính xách tay hiện nay. Window của Microsoft và nền tảng MacOS của Apple là hai ví dụ cho hệ điều hành cho phép một người sử dụng chạy nhiều chương trình cùng một lúc. Ví dụ như nó cho phép người sử dụng Window ghi chép trong bộ xử lý word trong khi tải một file từ Internet và in một văn bản của tin nhắn e-mail.
4.Nhiều người sử dụng- Một hệ điều hành nhiều người sử dụng cho phép nhiều người sử dụng khác nhau dùng tài nguyên của máy tính cùng một lúc. Hệ điều hành phải đảm bảo rằng yêu cầu của những người sử dụng khác nhau được cân bằng, và mỗi chương trình mà họ sử dụng có tài nguyên riêng và đầy đủ để vấn đề của mỗi người sử dụng không ảnh hưởng đến cộng đồng người sử dụng. Hệ điều hành Unix, VMS và Mainframe như MVS là những ví dụ cho hệ điều hành nhiều người sử dụng.
lamhuubinh(I91C)- Tổng số bài gửi : 34
Join date : 28/08/2011
Nhiệm Vụ Của Hệ Điều Hành Bổ xung thêm trong phần Vai trò của HĐH
Hệ điều hành có 6 nhiệm vụ cơ bản:
•Quản lý bộ xử lý
•Quản lý bộ nhớ
•Quản lý thiết bị
•Quản lý lưu trữ
•Giao diện ứng dụng
•Giao diện người sử dụng
-Quản lý bộ vi xử lý
Quản lý bộ xử lý liên quan đến hai vấn đề chính:
+Đảm bảo rằng mỗi quá trình và ứng dụng nhận được đủ thời gian của bộ xử lý để thực hiệc các chức năng phù hợp.
+Sử dụng bao nhiêu chu kì lệnh bộ vi xử lý cho công việc thực sự là thích hợp.
Đơn vị cơ bản của phần mềm mà hệ điều hành phân phối theo một kế hoạch được thực hiện bởi CPU gọi là Process hoặc Thread , phụ thuộc vào hệ điều hành.
-Lưu trữ bộ nhớ và quản lý
Khi một hệ điều hành quản lý bộ nhớ của máy tính, có hai nhiệm vụ lớn cần thực hiện:
1.Mỗi Process phải có đủ bộ nhớ để thực hiện và nó không thể chạy sang không gian bộ nhớ của một Process khác cũng như một quy trình khác chạy sang nó.
2.Các kiểu bộ nhớ khác nhau trong hệ thống phải được sử dụng phù hợp để mỗi Process có thể chạy hiệu quả.
Nhiệm vụ đầu tiên yêu cầu hệ điều hành thiếp lập ranh giới cho các loại phần mềm và cho các ứng dụng riêng biệt.
-Quản lí thiết bị :
Đường dẫn giữa hệ điều hành và tất cả phần cứng trên Mainboard của máy tính đi qua một chương trình đặc biệt gọi là bộ phận điều khiển hay Driver. Phần lớn chức năng của Driver là chuyển đổi tín hiệu điện của hệ thống phần cứng và ngôn ngữ lập trình cấp cao của hệ điều hành và chương trình ứng dụng. Driver lấy dữ liệu mà hệ điều hành định nghĩa là một file và dịch chúng sang dòng bit được đặt ở một vị trí cụ thể trong thiết bị lưu trữ hay một loạt các xung laze trong máy in.
-Giao diện đối với bên ngoài
+Giao diện ứng dụng
Trong khi các Driver đưa ra cách để ứng dụng tận dụng hệ thống phần cứng phụ mà không phải biết mọi chi tiết về hoạt động của phần cứng thì Giao diện lập trình ứng dụng (application program interfaces - API) cho phép nhà lập trình ứng dụng sử dụng chức năng của máy tính và hệ điều hành mà không phải kiểm tra tất cả chi tiết trong hoạt động của CPU.
+Giao diện người sử dụng:
Trong khi API cung cấp một phương thức thích hợp cho các ứng dụng sử dụng tài nguyên của hệ thống máy tính, giao diện người sử dụng ( UI – User Interface ) cung cấp cấu trúc cho tương tác giữa người sử dụng và máy tính. Trong thập kỉ trước, hầu hết sự phát triển trong giao diện người sử dụng thuộc lĩnh vực giao diện người dùng đồ hoạ (GUI – Graphic User Interface ) với hai mẫu là Macintosh của Apple và Windows của Microsoft đã thu hút sự chú ý của người tiêu dùng và chiếm phần lớn thị phần. Hệ điều hành Linux nguồn mở phổ biến cũng hỗ trợ cho giao diện người dùng đồ hoạ.
•Quản lý bộ xử lý
•Quản lý bộ nhớ
•Quản lý thiết bị
•Quản lý lưu trữ
•Giao diện ứng dụng
•Giao diện người sử dụng
-Quản lý bộ vi xử lý
Quản lý bộ xử lý liên quan đến hai vấn đề chính:
+Đảm bảo rằng mỗi quá trình và ứng dụng nhận được đủ thời gian của bộ xử lý để thực hiệc các chức năng phù hợp.
+Sử dụng bao nhiêu chu kì lệnh bộ vi xử lý cho công việc thực sự là thích hợp.
Đơn vị cơ bản của phần mềm mà hệ điều hành phân phối theo một kế hoạch được thực hiện bởi CPU gọi là Process hoặc Thread , phụ thuộc vào hệ điều hành.
-Lưu trữ bộ nhớ và quản lý
Khi một hệ điều hành quản lý bộ nhớ của máy tính, có hai nhiệm vụ lớn cần thực hiện:
1.Mỗi Process phải có đủ bộ nhớ để thực hiện và nó không thể chạy sang không gian bộ nhớ của một Process khác cũng như một quy trình khác chạy sang nó.
2.Các kiểu bộ nhớ khác nhau trong hệ thống phải được sử dụng phù hợp để mỗi Process có thể chạy hiệu quả.
Nhiệm vụ đầu tiên yêu cầu hệ điều hành thiếp lập ranh giới cho các loại phần mềm và cho các ứng dụng riêng biệt.
-Quản lí thiết bị :
Đường dẫn giữa hệ điều hành và tất cả phần cứng trên Mainboard của máy tính đi qua một chương trình đặc biệt gọi là bộ phận điều khiển hay Driver. Phần lớn chức năng của Driver là chuyển đổi tín hiệu điện của hệ thống phần cứng và ngôn ngữ lập trình cấp cao của hệ điều hành và chương trình ứng dụng. Driver lấy dữ liệu mà hệ điều hành định nghĩa là một file và dịch chúng sang dòng bit được đặt ở một vị trí cụ thể trong thiết bị lưu trữ hay một loạt các xung laze trong máy in.
-Giao diện đối với bên ngoài
+Giao diện ứng dụng
Trong khi các Driver đưa ra cách để ứng dụng tận dụng hệ thống phần cứng phụ mà không phải biết mọi chi tiết về hoạt động của phần cứng thì Giao diện lập trình ứng dụng (application program interfaces - API) cho phép nhà lập trình ứng dụng sử dụng chức năng của máy tính và hệ điều hành mà không phải kiểm tra tất cả chi tiết trong hoạt động của CPU.
+Giao diện người sử dụng:
Trong khi API cung cấp một phương thức thích hợp cho các ứng dụng sử dụng tài nguyên của hệ thống máy tính, giao diện người sử dụng ( UI – User Interface ) cung cấp cấu trúc cho tương tác giữa người sử dụng và máy tính. Trong thập kỉ trước, hầu hết sự phát triển trong giao diện người sử dụng thuộc lĩnh vực giao diện người dùng đồ hoạ (GUI – Graphic User Interface ) với hai mẫu là Macintosh của Apple và Windows của Microsoft đã thu hút sự chú ý của người tiêu dùng và chiếm phần lớn thị phần. Hệ điều hành Linux nguồn mở phổ biến cũng hỗ trợ cho giao diện người dùng đồ hoạ.
lamhuubinh(I91C)- Tổng số bài gửi : 34
Join date : 28/08/2011
Đặc điểm của thời gian thực (Read Time System - RTS)
- Thực hiện được một hoặc một số nhiệm vụ (task) trong một thời gian qui định.
- Đảm bảo được dù có bất kỳ điều gì xảy ra đối với hệ thống thì số nhiệm vụ trên vẫn hoàn thành trong đúng thời gian đó. Cần nhớ hệ RTS gồm: Phần mềm RT (real-time software hoặc real-time module hay RT toolkit) và Phần cứng RT (real-time hardware).
Ví dụ: túi khí (airbag) trên xe hơi là một RTS. Vì khi có cảm biến tai nạn được kích hoạt. Túi khí sẽ được bung ra trong một khoảng thời gian rất ngắn (được định trước bởi kỹ sư lập trình). Giả sử nếu túi khí không là một RTS thì tài xế sẽ chết trước khi túi khí bung
-hệ điều hành Window có phải là RTS ?
-Trước hết bản thân phần mềm window là không phải RT software vì window là hệ điều hành đa chức năng (chứ không thiết kế cho ứng dụng RT trong kỹ thuật). Thường đơn giản như việc ta dùng phần mềm chat (yahoo messenger) để chat theo thời gian thực (tức bạn gửi tin thì người được gửi sẽ nhận ngay sau khi bạn nhấn enter). Tuy nhiên khi máy có virus hoặc có một phần mềm, hay phần cứng nào tác động (interupt) thì đột nhiên tin messenger bị đứng (treo máy). Do vậy dù bạn có nhấn enter rồi thì tin vẫn không gửi đi được. Thứ hai, phần cứng của máy tính để bàn là một hệ thống được thiết kế với mục đích đa năng (của máy tính thông thường như soạn thảo văn bản, chơi game, nghe nhạc, vv). Do vậy, so với máy tính đặc biệt dùng xây dựng lên hệ điều hành RT (RT Computer) thì máy để bàn (Destop PC) có tính năng kém hơn trong việc tạo ứng dụng RT.
- Đảm bảo được dù có bất kỳ điều gì xảy ra đối với hệ thống thì số nhiệm vụ trên vẫn hoàn thành trong đúng thời gian đó. Cần nhớ hệ RTS gồm: Phần mềm RT (real-time software hoặc real-time module hay RT toolkit) và Phần cứng RT (real-time hardware).
Ví dụ: túi khí (airbag) trên xe hơi là một RTS. Vì khi có cảm biến tai nạn được kích hoạt. Túi khí sẽ được bung ra trong một khoảng thời gian rất ngắn (được định trước bởi kỹ sư lập trình). Giả sử nếu túi khí không là một RTS thì tài xế sẽ chết trước khi túi khí bung
-hệ điều hành Window có phải là RTS ?
-Trước hết bản thân phần mềm window là không phải RT software vì window là hệ điều hành đa chức năng (chứ không thiết kế cho ứng dụng RT trong kỹ thuật). Thường đơn giản như việc ta dùng phần mềm chat (yahoo messenger) để chat theo thời gian thực (tức bạn gửi tin thì người được gửi sẽ nhận ngay sau khi bạn nhấn enter). Tuy nhiên khi máy có virus hoặc có một phần mềm, hay phần cứng nào tác động (interupt) thì đột nhiên tin messenger bị đứng (treo máy). Do vậy dù bạn có nhấn enter rồi thì tin vẫn không gửi đi được. Thứ hai, phần cứng của máy tính để bàn là một hệ thống được thiết kế với mục đích đa năng (của máy tính thông thường như soạn thảo văn bản, chơi game, nghe nhạc, vv). Do vậy, so với máy tính đặc biệt dùng xây dựng lên hệ điều hành RT (RT Computer) thì máy để bàn (Destop PC) có tính năng kém hơn trong việc tạo ứng dụng RT.
dangminhthinh2107- Tổng số bài gửi : 15
Join date : 09/09/2011
Re: Thảo luận Bài 1
nguyenthithutrang (I11C) đã viết:BuiHoangTuan.131.I11C đã viết:TruongHanhPhuc (I11C) đã viết:File-server: là mô hình trong đó một máy tính có nhiệm vụ làm nơi lưu trữ dữ liệu, cho phép các máy tính trong cùng hệ thống mạng có thể lưu trữ và truy xuất file đang lưu trên đó. File-server giúp các máy tính trong cùng hệ thống mạng có thể chia sẻ file với nhau không cần thông qua các thiết bị lưu trữ tạm thời như USB, đĩa CD/DVD hay ổ cứng di động để truyền file. Trong một mô hình mạng đơn giản, File-server có thể chỉ là một máy tính bình thường đóng vai trò làm nơi chia sẻ file. Trong một hệ thống mạng phức tạp hơn, File-Server có thể là một thiết bị NAS (network-attached storage).
Client-server: là một mô hình được sử dụng rộng rãi trong mạng máy tính. Ý nghĩa của mô hình này là máy khách (Client) sẽ gửi yêu cầu đến máy chủ (Server), máy chủ sẽ xử lý và trả kết quả về cho máy khách. Những yêu cầu ở đây có thể là một trang web (Web-Server), Email (Mail-Server).... Mô hình Client-Server bao gồm cả File-Server vì nó hỗ trợ cả việc lưu trữ và chia sẻ file.
mình xin nói rõ hơn chút về 2 mô hình:
-
Tôi bổ sung thêm về một số ý cho rõ ở mô hình client-server như bạn trình bày.
Về mô hình client-server tỏ ra ưu thế vượt trội, được dùng rộng rãi trong các hệ thống máy tính như ngày nay và phát triển có rất nhiều lợi ích. Trong hệ thống mạng cục bộ (local) mô hình này giúp quản lý chặt chẽ phân quyền (VD: Active Directory của Windows hoặc Access Control List trong Solaris...). Ngoài ra, còn rất nhiều dịch vụ khác chẳng hạn như web services, mail, instant messenging, ... các dịch này hiện nay rất phổ biến.
Gần đây, các bạn thường nghe nhắc tới dịch vụ điện toán đám mây (Cloud Computing) nó cũng tương tự vậy.
Clients và Servers là các thiết bị thực hiện các chức năng đặc trưng trên mạng. Các thiết bị Client thông thường yêu cầu và nhận thông tin trên mạng. Các máy tính xách tay và hầu hết các máy tính bàn vận hành như các Client. Một thiết bị gọi là Server khi nó làm chủ các tập tin, làm chủ các cơ sở dữ liệu, các Web site hay các ứng dụng khác. Các thiết bị Server thường có bộ vi xử lý với tốc độ cao, có nhiều bộ nhớ, và đĩa cài đặt lớn hơn so với các Client.
Thuật ngữ Client/Server ngụ ý tới bất kỳ một mạng nào thiết kế sử dụng các Client và các Server. Web, FTP, email, DNS và nhiều ứng dụng cơ sở dữ liệu khác là các thiết kế theo kiểu Client/Server. Các mạng Client/Server có thể được xây dựng trên Internet, trong Intranet, hay tại nhà.
Sự khác biệt chính của mạng Client/Server so với mạng ngang hàng là, trong mạng ngang hàng (pear – to – pear) các thiết bị truyền thông trên mạng có vai trò như nhau, chúng vừa là thiết bị cung cấp tài nguyên cho mạng vừa là thiết bị sử dụng tài nguyên của mạng
mình xin nói rõ hơn về 2 mô hình mạng bạn đã nói:
- Mạng Pear-to-pear hay còn gọi mạng ngang hàng, các user có quyền đều như nhau (workgroup).không có máy nào quản lý máy nào cả.
- Mạng Client /Server mà máy khách và chủ thường là Server là máy chủ cung cấp và chia sẽ tài nguyên cho các máy client truy cập đến và lấy dữ liệu về dùng, với mô hình này dữ liệu được quản lý chặc chẽ hơn.
tranvanhai_21(I11c)- Tổng số bài gửi : 47
Join date : 25/08/2011
Age : 40
Đến từ : Đồng Nai
Re: Thảo luận Bài 1
Khái niệm Hệ điều hành:
Một hệ điều hành là một phần quan trọng của mội hệ thống máy tính. Một hệ thống máy tính có thể được chia làm bốn thành phần : Phần cứng,hệ diều hành , các chương trình ứng dụng và người sử dụng.
+ Phần cứng (hardware) bao gồm bộ xử lý trung tâm (CPU), bộ nhớ, thiết bị nhập /xuất,.. cung cấp tài nguyên cơ bản cho hệ thống.
+ Các chương trình ứng dụng ( application programs) bao gồm trình biên dịch (copiler ), trình soạn thảo văn bản (text editor ), hệ cơ sở dữ liệu (database system), trình duyệt Web,… mà trong đó các tài nguyên được sử dụng để giải quyết yêu cầu của người dùng.
+ Người sử dụng (user) : Có nhiều loại người sử dụng máy tính khác nhau, thực hiễn những yêu cầu khác nhau , do đó sẽ có nhiều ứng dụng khác nhau.
+ Hệ điều hành (Operating system ) hsy còn gọi là chương trình hệ thống, điều khiển và phối hợp việc sử dụng phần cứng giữa những chương trình ứng dụng khác nhau cho những người dùng khác nhau. Hệ điều hành có thể hiểu theo phái người sử dụng hoặc từ phía người làm hệ thống.
Định nghĩa hệ điều hành (Operating System)
Hệ điều hành là một chương trình quản lý phần cứng mấy tính. Nó cung cấp nền tảng cho các chương trình ứng dụng và đóng vai trò trung gian giao tiếp giữa người dùng máy tính và phần cứng của máy tính đó.
Mục tiêu của OS là làm cho người sử dụng :
+ Thực thi dễ dàng với các ứng dụng của mình.
+ Thao tác điều khiển máy tính trở nên thân thiện.
+ Khai thác phần cứng máy tính một cách hiệu quả.
Chúng ta có thể thấy hệ điều hành như bộ cấp phát tài nguyên. Hệ thống máy tính có nhiều tài nguyên phần cứng và phần mềm mà có thể được yêu cầu giải quyết một vấn đề : thời gian CPU, không gian bộ nhớ, không gian lưu trữ tập tin, các thiết bị nhập xuất… Hệ điều hành hoạt động như bộ quản lý tài nguyên. Đương đầu với một lượng lớn các yêu cầu có thể xung đột về tài nguyên, hệ điều hành phải quyết định cách cấp phát tài nguyên tới những chương trình cụ thể và người dùng để có thể điều hành hệ thống máy tính hữu hiệu và công bằng.
Một cách nhìn khác của hệ điều hành nhấn mạnh sự cần thiết để điều khiển các thiết bị nhập xuất khác nhau và chương trình ứng dụng. một hệ điều hành là một chương trình điều khiển. Chương trình điều khiển quản lý sự thực thi của các chương trình người dùng để ngăn chặn lỗi và việc sử dụng không hợp lý máy tính. Nó đặc biệt quan tâm với những thao tác và điều khiển các thiết bị nhập xuất.
[center]+ Phần cứng (hardware) bao gồm bộ xử lý trung tâm (CPU), bộ nhớ, thiết bị nhập /xuất,.. cung cấp tài nguyên cơ bản cho hệ thống.
+ Các chương trình ứng dụng ( application programs) bao gồm trình biên dịch (copiler ), trình soạn thảo văn bản (text editor ), hệ cơ sở dữ liệu (database system), trình duyệt Web,… mà trong đó các tài nguyên được sử dụng để giải quyết yêu cầu của người dùng.
+ Người sử dụng (user) : Có nhiều loại người sử dụng máy tính khác nhau, thực hiễn những yêu cầu khác nhau , do đó sẽ có nhiều ứng dụng khác nhau.
+ Hệ điều hành (Operating system ) hsy còn gọi là chương trình hệ thống, điều khiển và phối hợp việc sử dụng phần cứng giữa những chương trình ứng dụng khác nhau cho những người dùng khác nhau. Hệ điều hành có thể hiểu theo phái người sử dụng hoặc từ phía người làm hệ thống.
Định nghĩa hệ điều hành (Operating System)
Hệ điều hành là một chương trình quản lý phần cứng mấy tính. Nó cung cấp nền tảng cho các chương trình ứng dụng và đóng vai trò trung gian giao tiếp giữa người dùng máy tính và phần cứng của máy tính đó.
Mục tiêu của OS là làm cho người sử dụng :
+ Thực thi dễ dàng với các ứng dụng của mình.
+ Thao tác điều khiển máy tính trở nên thân thiện.
+ Khai thác phần cứng máy tính một cách hiệu quả.
Chúng ta có thể thấy hệ điều hành như bộ cấp phát tài nguyên. Hệ thống máy tính có nhiều tài nguyên phần cứng và phần mềm mà có thể được yêu cầu giải quyết một vấn đề : thời gian CPU, không gian bộ nhớ, không gian lưu trữ tập tin, các thiết bị nhập xuất… Hệ điều hành hoạt động như bộ quản lý tài nguyên. Đương đầu với một lượng lớn các yêu cầu có thể xung đột về tài nguyên, hệ điều hành phải quyết định cách cấp phát tài nguyên tới những chương trình cụ thể và người dùng để có thể điều hành hệ thống máy tính hữu hiệu và công bằng.
Một cách nhìn khác của hệ điều hành nhấn mạnh sự cần thiết để điều khiển các thiết bị nhập xuất khác nhau và chương trình ứng dụng. một hệ điều hành là một chương trình điều khiển. Chương trình điều khiển quản lý sự thực thi của các chương trình người dùng để ngăn chặn lỗi và việc sử dụng không hợp lý máy tính. Nó đặc biệt quan tâm với những thao tác và điều khiển các thiết bị nhập xuất.
NguyenTienPhong083 (I11C)- Tổng số bài gửi : 37
Join date : 26/08/2011
Age : 36
Re: Thảo luận Bài 1
Mục tiêu của Hệ điều hành
+ Mục tiêu chính của hệ điều hành là dễ dàng sử dụng. Vì tồn tại của hệ điều hành hỗ trợ nhiều cho máy tính trong việc đáp ứng của người dùng. Quan niệm này đặc biệt rõ ràng hơn khi nhìn trên các máy tính cá nhân.
Mục tiệu thứ hai của hệ điều hành là điều hành hữu hiệu hệ thống máy tính , mục tiêu này đặc biệt quan trọng với các hệ thống lớn, được chia sẻ, nhiều người dùng. Những hệ thống này khác đắt, khai thác hiệu quả nhát các hệ thống này luôn là điều mong muốn. Tuy nhiên, hai mục tiêu tiện dụng và hữu hiệu đội khi mâu thuẫn nhau. Trong quá khứ, xem xét tính hữu hiệu thường quan trọng hơn tính tiện dụng. Do đó, lý thuyết hệ điều hành tập trung nhiều vào việc tối ưu hóa sử dụng tài nguyên tính toán. Hệ điều hành cũng phát triển dần theo thời gian. Thí dụ UNIX đã bắt đầu với bàn phím và máy in như giao diện của nó giới hạn tính tiện dụng đối với người dùng . Qua thời gian, phần cứng thay đổi và UNIX được gắn vào phần cứng với giao diện thân thiện với người dùng hơn. Nhiều giao diện người dùng cho đồ họa GUIs (graphical user interfaces) được bổ sung cho phép tiện dụng hơn với người dùng trong khi vẫn quan tâm đến hiệu quả.
Thiết kế hệ điều hành là một công việc phức tạp. người thiết kế phải nhiều sự thỏa hiệp trong thiết kế và cài đặt. Việc nhiều người tham gia mang đến hệ điều hành những cải tiến mới và điều đó cho phép liên tục nâng cấp những phiên bản tốt hơn.
Hệ điều hành và kiến trúc máy tính có mối quan hệ khăng khít nhau. Để dễ dàng sử dụng phần cứng, hệ điều hành được phát triển.
Khái niệm hệ điều hành về phía người sử dụng.
+ Hầu hết những người dùng máy tính ngồi trước máy tính cá nhân gồm có màn hình, bàn phím, chuột và bộ phận xử lý hệ thống (system unit). Một hệ thống như thế được thiết kế cho một người độc quyền sử dụng tài nguyên của nó để tối ưu hóa công việc mà người dùng đang thực hiện. trong trường hợp này, hệ điều hành được thiết kế dễ dàng cho việc sử dụng với sự quan tâm về năng lực nhưng không quan tâm tới việc sử dụng tài nguyên. Năng lực thực hiện là quan trọng với người dùng nhưng không là vấn đề quan trọng nếu hầu hết hệ thống đang rảnh, chờ tốc tộ nhập / xuất chậm từ phía người dùng.
+ Trường hợp khác người dùng ngồi tại thiết bị đầu cuối (termial) được kết nối tới máy tính lớn (mainframe) hay máy tính tầm trung (minicomputer). Những người khác đang truy xuất cùng máy tính thông qua các thiết bị đầu cuối khác. Những người dùng này chia sẻ tài nguyên và có thể trao đổi thông tin. Hệ điều hành được thiết kế để tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên để đảm bảo rằng tất cả thời gian sẵn sàng thực hiện của CPU, bộ nhớ và thiết bị nhập xuất được sử dụng hữu hiệu và cá nhân người dùng sử dụng độc quyền tài nguyên hơn là chia sẻ công bằng.
+ Trường hợp tiếp theo người dùng khác ngồi tại trạm làm việc, được kết nối tới mạng của trạm làm việc khác và máy chủ. Những người dùng này có tài nguyên tận hiến là trạm làm việc của mình nhưng họ cũng chia sẻ tài nguyên trên mạng và các máy chủ - tập tin, tính toán và các máy phục vụ in. Do đó, hệ điều hành của họ được thiết kế để thỏa hiệp giữa những khả năng sử dụng cá nhân và việc tận dụng tài nguyên.
+ Đối với trường hợp của máy tính cầm tay, cac thiết bị này sử dụng chỉ bởi cá nhân người dùng. Một vài máy tính này được nối mạng hoặc nối trực tiếp bằng dây thông qua các moderm không dây. Do sự giới hạn về năng lượng (điện) và giao diện, chúng thực hiện tương đối ít các thao tác ở xa. Hệ điều hành được thiết kế chủ yếu cho việc sử dụng cá nhân nhưng năng lực thực hiện trên thời gian sông của pin là yếu tố quan trọng.
+ Một số máy tính người dùng nó mà không để ý đến sự hiện diện của nó. Thí dụ, các máy tính được nhúng vào các thiết bị gia đình và xe ôtô có thể có một bảng số và các đèn hiển thị trạng thái mở tắt nhưng hầu hết chúng và các hệ điều hành được thiết kế để chạy mà không cần giao tiếp.
Mục tiệu thứ hai của hệ điều hành là điều hành hữu hiệu hệ thống máy tính , mục tiêu này đặc biệt quan trọng với các hệ thống lớn, được chia sẻ, nhiều người dùng. Những hệ thống này khác đắt, khai thác hiệu quả nhát các hệ thống này luôn là điều mong muốn. Tuy nhiên, hai mục tiêu tiện dụng và hữu hiệu đội khi mâu thuẫn nhau. Trong quá khứ, xem xét tính hữu hiệu thường quan trọng hơn tính tiện dụng. Do đó, lý thuyết hệ điều hành tập trung nhiều vào việc tối ưu hóa sử dụng tài nguyên tính toán. Hệ điều hành cũng phát triển dần theo thời gian. Thí dụ UNIX đã bắt đầu với bàn phím và máy in như giao diện của nó giới hạn tính tiện dụng đối với người dùng . Qua thời gian, phần cứng thay đổi và UNIX được gắn vào phần cứng với giao diện thân thiện với người dùng hơn. Nhiều giao diện người dùng cho đồ họa GUIs (graphical user interfaces) được bổ sung cho phép tiện dụng hơn với người dùng trong khi vẫn quan tâm đến hiệu quả.
Thiết kế hệ điều hành là một công việc phức tạp. người thiết kế phải nhiều sự thỏa hiệp trong thiết kế và cài đặt. Việc nhiều người tham gia mang đến hệ điều hành những cải tiến mới và điều đó cho phép liên tục nâng cấp những phiên bản tốt hơn.
Hệ điều hành và kiến trúc máy tính có mối quan hệ khăng khít nhau. Để dễ dàng sử dụng phần cứng, hệ điều hành được phát triển.
Khái niệm hệ điều hành về phía người sử dụng.
+ Hầu hết những người dùng máy tính ngồi trước máy tính cá nhân gồm có màn hình, bàn phím, chuột và bộ phận xử lý hệ thống (system unit). Một hệ thống như thế được thiết kế cho một người độc quyền sử dụng tài nguyên của nó để tối ưu hóa công việc mà người dùng đang thực hiện. trong trường hợp này, hệ điều hành được thiết kế dễ dàng cho việc sử dụng với sự quan tâm về năng lực nhưng không quan tâm tới việc sử dụng tài nguyên. Năng lực thực hiện là quan trọng với người dùng nhưng không là vấn đề quan trọng nếu hầu hết hệ thống đang rảnh, chờ tốc tộ nhập / xuất chậm từ phía người dùng.
+ Trường hợp khác người dùng ngồi tại thiết bị đầu cuối (termial) được kết nối tới máy tính lớn (mainframe) hay máy tính tầm trung (minicomputer). Những người khác đang truy xuất cùng máy tính thông qua các thiết bị đầu cuối khác. Những người dùng này chia sẻ tài nguyên và có thể trao đổi thông tin. Hệ điều hành được thiết kế để tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên để đảm bảo rằng tất cả thời gian sẵn sàng thực hiện của CPU, bộ nhớ và thiết bị nhập xuất được sử dụng hữu hiệu và cá nhân người dùng sử dụng độc quyền tài nguyên hơn là chia sẻ công bằng.
+ Trường hợp tiếp theo người dùng khác ngồi tại trạm làm việc, được kết nối tới mạng của trạm làm việc khác và máy chủ. Những người dùng này có tài nguyên tận hiến là trạm làm việc của mình nhưng họ cũng chia sẻ tài nguyên trên mạng và các máy chủ - tập tin, tính toán và các máy phục vụ in. Do đó, hệ điều hành của họ được thiết kế để thỏa hiệp giữa những khả năng sử dụng cá nhân và việc tận dụng tài nguyên.
+ Đối với trường hợp của máy tính cầm tay, cac thiết bị này sử dụng chỉ bởi cá nhân người dùng. Một vài máy tính này được nối mạng hoặc nối trực tiếp bằng dây thông qua các moderm không dây. Do sự giới hạn về năng lượng (điện) và giao diện, chúng thực hiện tương đối ít các thao tác ở xa. Hệ điều hành được thiết kế chủ yếu cho việc sử dụng cá nhân nhưng năng lực thực hiện trên thời gian sông của pin là yếu tố quan trọng.
+ Một số máy tính người dùng nó mà không để ý đến sự hiện diện của nó. Thí dụ, các máy tính được nhúng vào các thiết bị gia đình và xe ôtô có thể có một bảng số và các đèn hiển thị trạng thái mở tắt nhưng hầu hết chúng và các hệ điều hành được thiết kế để chạy mà không cần giao tiếp.
NguyenTienPhong083 (I11C)- Tổng số bài gửi : 37
Join date : 26/08/2011
Age : 36
Re: Thảo luận Bài 1
Hệ điều hành đa xử lý
Hầu hết các hệ điều hành ngày nay là các hệ điều hành đơn xử lý, nghĩa là chỉ có một CPU chính. Tuy nhiên, các hệ điều hành đa xử lý (hay còn gọi là hệ điều hành song song hay kết nối chặt) vẫn được chú trọng phát triển. Các hệ thống như thế có nhiều hơn một bộ xử lý, chia sẻ bus máy tính, đồng hồ xung nhịp, đôi khi còn là bộ nhớ hay thiết bị ngoại vi.
Hệ điều hành đa xử lý có ba ưu điểm chính:
+ Thông lượng được gia tăng : bằng cách tăng số lượng bộ xử lý, chúng ta hi vọng thực hiện nhiều công việc hơn với thời gian ít hơn. Tỉ lệ giữa sự tăng tốc vói N bộ xử lý không là N; đúng hơn nó nhỏ hơn N. Trong khi nhiều bộ xử lý cộng tác trên một công việc, một lượng chi phí phải chịu trong việc giữ các thành phần làm việc phù hợp. Chí phí này cộng với chi phí phải chịu trong việc giữ các thành phần làm việc phù hợp. Chi phí này cộng với chi phí cạnh tranh tài nguyên được chia sẻ, làm giảm kết quả được mong đợi từ những bộ xử lý sung. Tương tự như một nhóm gồm N lập trình viên làm việc với nhau không dẫn đến kết quả công việc đang đạt tăng N lần.
+ Tính kinh tế của việc mở rộng : hệ điều hành đa xử lý có thể tiết kiệm nhiều chi phí hơn hệ thống đơn bộ xử lý, bởi vì chúng ta có thể chia sẻ ngoại vi, thiết bị lưu trữ, điện . Nếu nhiều chương trình điều hành trên cùng tập hợp dữ liệu thì lưu trữ dữ liệu trên một cái đĩa và tất cả bộ xử lý chia sẻ chúng sẽ rẻ hơn là có nhiều máy tính với đĩa cục bộ và nhiều bản sao dữ liệu.
+ Khả năng tin cậy được gia tăng : nếu các chức năng được phân bổ hợp lý giữa các bộ xử lý thì lỗi trên một bộ xử lý sẽ không dừng hệ thống, chỉ năng lực bị giảm. Nếu chúng ta có 10 bộ xử lý và có 1 bộ xử lý bị sự cố thì bộ xử lý trong 9 bộ bử lý còn lại phải chia sẻ của công việc của bộ xử lý bị lỗi. Do đó, toàn hệ thống chỉ giảm 10% năng lực hơn là dừng hoạt động. Các hệ thống được thiết kế như thế được gọi là hệ thống có khả năng chịu lỗi (fault tolerant). Việc điều hành vẫn tiếp tục trong sự hiện diện của lỗi yêu cầu một cơ chế cho phép lỗi được phát hiện, chuẩn đoán và sửa lỗi nếu có thể. Hệ thống Tandem sử dụng sự nhân đôi phần cứng và phần mềm để đảm bảo sự điều hành vẫn tiếp tục mặc dù có lỗi xảy ra. Hệ thống này có hai bộ xử lý, mỗi bộ xử lý là dự phòng. Cả hai bản sao được giữ ở mỗi bộ xử lý : một là chính và bộ xử lý kia là dự phòng. Tại các điểm kiểm tra (checkpoints) trong việc thực thi cảu hệ thống, thông tin trạng thái của mỗi công việc bao gồm một bản sao hình ảnh bộ nhớ được chép từ máy chính đến máy dự phòng. Nếu một lỗi được phát hiện bản sao dự phòng được kích hoạt và khởi động lại từ điểm kiểm tra mới nhất.
Hầu hết các hệ điều hành ngày nay là các hệ điều hành đơn xử lý, nghĩa là chỉ có một CPU chính. Tuy nhiên, các hệ điều hành đa xử lý (hay còn gọi là hệ điều hành song song hay kết nối chặt) vẫn được chú trọng phát triển. Các hệ thống như thế có nhiều hơn một bộ xử lý, chia sẻ bus máy tính, đồng hồ xung nhịp, đôi khi còn là bộ nhớ hay thiết bị ngoại vi.
Hệ điều hành đa xử lý có ba ưu điểm chính:
+ Thông lượng được gia tăng : bằng cách tăng số lượng bộ xử lý, chúng ta hi vọng thực hiện nhiều công việc hơn với thời gian ít hơn. Tỉ lệ giữa sự tăng tốc vói N bộ xử lý không là N; đúng hơn nó nhỏ hơn N. Trong khi nhiều bộ xử lý cộng tác trên một công việc, một lượng chi phí phải chịu trong việc giữ các thành phần làm việc phù hợp. Chí phí này cộng với chi phí phải chịu trong việc giữ các thành phần làm việc phù hợp. Chi phí này cộng với chi phí cạnh tranh tài nguyên được chia sẻ, làm giảm kết quả được mong đợi từ những bộ xử lý sung. Tương tự như một nhóm gồm N lập trình viên làm việc với nhau không dẫn đến kết quả công việc đang đạt tăng N lần.
+ Tính kinh tế của việc mở rộng : hệ điều hành đa xử lý có thể tiết kiệm nhiều chi phí hơn hệ thống đơn bộ xử lý, bởi vì chúng ta có thể chia sẻ ngoại vi, thiết bị lưu trữ, điện . Nếu nhiều chương trình điều hành trên cùng tập hợp dữ liệu thì lưu trữ dữ liệu trên một cái đĩa và tất cả bộ xử lý chia sẻ chúng sẽ rẻ hơn là có nhiều máy tính với đĩa cục bộ và nhiều bản sao dữ liệu.
+ Khả năng tin cậy được gia tăng : nếu các chức năng được phân bổ hợp lý giữa các bộ xử lý thì lỗi trên một bộ xử lý sẽ không dừng hệ thống, chỉ năng lực bị giảm. Nếu chúng ta có 10 bộ xử lý và có 1 bộ xử lý bị sự cố thì bộ xử lý trong 9 bộ bử lý còn lại phải chia sẻ của công việc của bộ xử lý bị lỗi. Do đó, toàn hệ thống chỉ giảm 10% năng lực hơn là dừng hoạt động. Các hệ thống được thiết kế như thế được gọi là hệ thống có khả năng chịu lỗi (fault tolerant). Việc điều hành vẫn tiếp tục trong sự hiện diện của lỗi yêu cầu một cơ chế cho phép lỗi được phát hiện, chuẩn đoán và sửa lỗi nếu có thể. Hệ thống Tandem sử dụng sự nhân đôi phần cứng và phần mềm để đảm bảo sự điều hành vẫn tiếp tục mặc dù có lỗi xảy ra. Hệ thống này có hai bộ xử lý, mỗi bộ xử lý là dự phòng. Cả hai bản sao được giữ ở mỗi bộ xử lý : một là chính và bộ xử lý kia là dự phòng. Tại các điểm kiểm tra (checkpoints) trong việc thực thi cảu hệ thống, thông tin trạng thái của mỗi công việc bao gồm một bản sao hình ảnh bộ nhớ được chép từ máy chính đến máy dự phòng. Nếu một lỗi được phát hiện bản sao dự phòng được kích hoạt và khởi động lại từ điểm kiểm tra mới nhất.
NguyenTienPhong083 (I11C)- Tổng số bài gửi : 37
Join date : 26/08/2011
Age : 36
Mã nguồn mở là gì ?
Phần mềm nguồn mở (PMNM) là những phần mềm được cung cấp dưới cả dạng mã và nguồn, không chỉ là miễn phí về giá mua mà chủ yếu là miễn phí về bản quyền: người dùng có quyền sửa đổi, cải tiến, phát triển, nâng cấp theo một số nguyên tắc chung qui định trong giấy phép PMNM (ví dụ General Public Licence – GPL) mà không cần xin phép ai, điều mà họ không được phép làm đối với các phần mềm nguồn đóng (tức là phần mềm thương mại).
Nhà cung cấp phần mềm nguồn mở có quyền yêu cầu người dùng trả một số chi phí về các dịch vụ bảo hành, huấn luyện, nâng cấp, tư vấn, vv... tức là những dịch vụ thực sự đã thực hiện để phục vụ người dùng, nhưng không được bán các sản phẩm nguồn mở vì nó là tài sản của trí tuệ chung, không phải là tài sản riêng của một nhà cung cấp nào.
Trên thị trường phần mềm, có nhiều loại giấy phép. Có thể chia các giấy phép này đại khái như sau [1]:
▪ Phần mềm thương mại (Commercial Software)
Là phần mềm thuộc bản quyền của tác giả hoặc nhà sản xuất, chỉ được cung cấp ở dạng mã nhị phân, người dùng phải mua và không có quyền phân phối lại.
▪ Phần mềm thử nghiệm giới hạn (Limited Trial Software)
Là những phiên bản giới hạn của các phần mềm thương mại được cung cấp miễn phí nhằm mục đích thử nghiệm, giới thiệu sản phẩm và kích thích người dùng quyết định mua. Loại sản phấm này không chỉ giới hạn về tính năng mà còn giới hạn về thời gian dùng thử (thường là 60 ngày).
▪ Phần mềm “chia sẻ” (Shareware)
Loại phần mềm này có đủ các tính năng và được phân phối tự do, nhưng có một giấy phép khuyến cáo các cá nhân hoặc tổ chức mua, tùy tình hình cụ thể. Nhiều tiện ích Internet (như “WinZip” dùng các thuận lợi của Shareware như một hệ thống phân phối).
▪ Phần mềm sử dụng phi thương mại (Non-commercial Use)
Loại phần mềm này được sử dụng tự do và có thể phân phối lại bởi các tổ chức phi lợi nhuận. Nhưng các tổ chức kinh tế, thí dụ các doanh nghiệp, ... muốn dùng phải mua. Netscape Navigator là một thí dụ của loại phần mềm này.
▪ Phần mềm không phải trả phần trăm cho nhà sản xuất (Royalties Free Binaries Software)
Phần mềm được cung cấp dưới dạng nhị phân và được dùng tự do. Thí dụ: bản nhị phân của các phần mềm Internet Explorer và NetMeeting.
▪ Thư viện phần mềm không phải trả phần trăm (Royalties Free Software Libraries)
Là những phần mềm mà mã nhị phân cũng như mã nguồn được dùng và phân phối tự do, nhưng người dùng không được phép sửa đổi. Thí dụ: các thư viện lớp học, các tệp “header”, vv ...
▪ Phần mềm mã nguồn mở kiểu BSD - (Open Source BSD-style)
Một nhóm nhỏ khép kín (closed team) đã phát triển các PMNM theo giấy phép phân phối Berkely (BSD – Berkely Software Distribution) cho phép sử dụng và phân phối lại các phần mềm này dưới dạng mã nhị phân và mã nguồn. Tuy người dùng có quyền sửa đổi mã, nhưng về nguyên tắc nhóm phát triển không cho phép người dùng tự do lấy mã nguồn từ kho mã ra sửa (gọi là check-out) và đưa mã đã sửa vào lại kho mã mà không được họ kiểm tra trước (gọi là các “check-in”) [2].
▪ PMNM kiểu Apache (Open Source Apache-style)
Chấp nhận nguồn mở kiểu BSD nhưng cho phép những người ngoài nhóm phát triển xâm nhập vào lõi của mã nền (core codebase), tức là được phép thực hiện các “check-in”.
▪ PMNM kiểu CopyLeft hay kiểu Linux (Open Source CopyLeft, Linux-style)
PMNM kiểu CopyLeft (trò chơi chữ của Free Software Foundation – FSF – và GNU – Gnu’s Not Unix, để đối nghịch hoàn toàn với CopyRight !) hay còn gọi là giấy phép GPL (General Public Licence) là một bước tiến quan trọng theo hướng tự do hóa của các giấy phép phần mềm. Giấy phép GPL yêu cầu không những mã nguồn gốc phải được phân phối theo các qui định của GPL mà mọi sản phẩm dẫn xuất cũng phải tuân thủ GPL.
GPL cho người dùng tối đa quyền hạn và tự do đối với các PMNM theo GPL, cụ thể người dùng có quyền không những sao chép, sửa đổi, mua bán các PMNM dưới CopyLeft mà còn được quyền tự do như vậy đối với các phần mềm dẫn xuất. Tóm lại nếu PMNM gốc đã theo CopyLeft thì mọi PMNM dẫn xuất của nó cũng đương nhiên theo CopyLeft
Nhà cung cấp phần mềm nguồn mở có quyền yêu cầu người dùng trả một số chi phí về các dịch vụ bảo hành, huấn luyện, nâng cấp, tư vấn, vv... tức là những dịch vụ thực sự đã thực hiện để phục vụ người dùng, nhưng không được bán các sản phẩm nguồn mở vì nó là tài sản của trí tuệ chung, không phải là tài sản riêng của một nhà cung cấp nào.
Trên thị trường phần mềm, có nhiều loại giấy phép. Có thể chia các giấy phép này đại khái như sau [1]:
▪ Phần mềm thương mại (Commercial Software)
Là phần mềm thuộc bản quyền của tác giả hoặc nhà sản xuất, chỉ được cung cấp ở dạng mã nhị phân, người dùng phải mua và không có quyền phân phối lại.
▪ Phần mềm thử nghiệm giới hạn (Limited Trial Software)
Là những phiên bản giới hạn của các phần mềm thương mại được cung cấp miễn phí nhằm mục đích thử nghiệm, giới thiệu sản phẩm và kích thích người dùng quyết định mua. Loại sản phấm này không chỉ giới hạn về tính năng mà còn giới hạn về thời gian dùng thử (thường là 60 ngày).
▪ Phần mềm “chia sẻ” (Shareware)
Loại phần mềm này có đủ các tính năng và được phân phối tự do, nhưng có một giấy phép khuyến cáo các cá nhân hoặc tổ chức mua, tùy tình hình cụ thể. Nhiều tiện ích Internet (như “WinZip” dùng các thuận lợi của Shareware như một hệ thống phân phối).
▪ Phần mềm sử dụng phi thương mại (Non-commercial Use)
Loại phần mềm này được sử dụng tự do và có thể phân phối lại bởi các tổ chức phi lợi nhuận. Nhưng các tổ chức kinh tế, thí dụ các doanh nghiệp, ... muốn dùng phải mua. Netscape Navigator là một thí dụ của loại phần mềm này.
▪ Phần mềm không phải trả phần trăm cho nhà sản xuất (Royalties Free Binaries Software)
Phần mềm được cung cấp dưới dạng nhị phân và được dùng tự do. Thí dụ: bản nhị phân của các phần mềm Internet Explorer và NetMeeting.
▪ Thư viện phần mềm không phải trả phần trăm (Royalties Free Software Libraries)
Là những phần mềm mà mã nhị phân cũng như mã nguồn được dùng và phân phối tự do, nhưng người dùng không được phép sửa đổi. Thí dụ: các thư viện lớp học, các tệp “header”, vv ...
▪ Phần mềm mã nguồn mở kiểu BSD - (Open Source BSD-style)
Một nhóm nhỏ khép kín (closed team) đã phát triển các PMNM theo giấy phép phân phối Berkely (BSD – Berkely Software Distribution) cho phép sử dụng và phân phối lại các phần mềm này dưới dạng mã nhị phân và mã nguồn. Tuy người dùng có quyền sửa đổi mã, nhưng về nguyên tắc nhóm phát triển không cho phép người dùng tự do lấy mã nguồn từ kho mã ra sửa (gọi là check-out) và đưa mã đã sửa vào lại kho mã mà không được họ kiểm tra trước (gọi là các “check-in”) [2].
▪ PMNM kiểu Apache (Open Source Apache-style)
Chấp nhận nguồn mở kiểu BSD nhưng cho phép những người ngoài nhóm phát triển xâm nhập vào lõi của mã nền (core codebase), tức là được phép thực hiện các “check-in”.
▪ PMNM kiểu CopyLeft hay kiểu Linux (Open Source CopyLeft, Linux-style)
PMNM kiểu CopyLeft (trò chơi chữ của Free Software Foundation – FSF – và GNU – Gnu’s Not Unix, để đối nghịch hoàn toàn với CopyRight !) hay còn gọi là giấy phép GPL (General Public Licence) là một bước tiến quan trọng theo hướng tự do hóa của các giấy phép phần mềm. Giấy phép GPL yêu cầu không những mã nguồn gốc phải được phân phối theo các qui định của GPL mà mọi sản phẩm dẫn xuất cũng phải tuân thủ GPL.
GPL cho người dùng tối đa quyền hạn và tự do đối với các PMNM theo GPL, cụ thể người dùng có quyền không những sao chép, sửa đổi, mua bán các PMNM dưới CopyLeft mà còn được quyền tự do như vậy đối với các phần mềm dẫn xuất. Tóm lại nếu PMNM gốc đã theo CopyLeft thì mọi PMNM dẫn xuất của nó cũng đương nhiên theo CopyLeft
PhamAnhKhoa(I11C)- Tổng số bài gửi : 13
Join date : 28/08/2011
Re: Thảo luận Bài 1
Theo ý kiến của mình thì win xp sẽ tồn tại song song với các hđh khác mặc dù nó đã bị coi là lạc hậu.NguyenVietThuan11 đã viết:- Thực ra, theo mình nghĩ, windows xp sẽ không tồn tại lâu đâu, bởi vì thực ra, ở châu Á, tình trạng sử dụng phần mềm không bản quyền rất nhiều (đặc biệt là Việt Nam, Trung Quốc và Đông Nam Á), trong khi đó, cấu hình phần cứng ngày càng mạnh hơn, vậy thì dĩ nhiên là số đông người dân sẽ sử dụng windows 7 thay cho windows xp. Mà ai ai cũng biết rằng, số dân của châu Á chiếm đa số trong tổng số dân số thế giới, chính vì thế, windows 7 sẽ nhanh chóng thay thế cho windows xp.ToThiThuyTrang (I11C) đã viết:Vì Sao Windows XP vẫn và sẽ tồn tại lâu
- Còn đối với các nước châu Âu và các nước phát triển, họ có thể upgrade windows xp lên windows 7.
- Dĩ nhiên là mình không phủ nhận, một bộ phận nhỏ người sử dụng sẽ vẫn sử dụng windows xp, bởi vì họ đã quen sử dụng với cách làm việc với windows xp.
Như hiện nay thì window 7 hiện đã rất thông dụng nhưng hiện Windows XP vẫn là hệ điều hành được nhiều người sử dụng .Vậy lý do cho điều này là:
Win xp kg yêu cầu cao về phần cứng như Windows Vista ,Windows 7 và mới nhất là window 8.
Đối với những công ty hay tổ chức đã tồn tại lâu việc vẫn sử dụng Windows XP được họ mua về và trả tiền để có được hệ điều hành này, họ cũng bỏ kinh phí để đào tạo các nhân viên trợ giúp để hỗ trợ nó trong toàn công ty,nếu không có lý do chính đáng cần phải nâng cấp thì họ sẽ vẫn sử dụng những gì còn hợp thời vẫn phục vụ tốt cho cv của công ty .Microsoft đã mở rộng thời gian hỗ trợ cho Windows XP một vài lần trong những năm qua. Trong lần gần đây nhất là 2014.
Một trong những điểm bị phê phán lớn nhất đối với Windows Vista khi nó được phát hành là không sử dụng các tài nguyên phần cứng hiệu quả bằng Windows XP. trong Vista và cả window 7 các ứng dụng bị hạn chế rất nhiều .nhiều ứng dụng đã cũ sẽ không thể chạy trên hệ điều hành Vista ,win 7,win 8..tuy nhiên là sự khó giải quyết vẫn chưa hoàn thiện nên nhiều người dùng vẫn tiếp tục sử dụng Windows XP.
Rất thích hợp với các máy tính Netbook,các thiết kế mới có kích thước và trọng lượng nhỏ,tuy nhiên cấu hinh lại không cao nên Đại đa số các netbook trên thị trường dường như đều sử dụng hệ điều hành Windows XP hoặc Linux. Bên cạnh đó Windows XP nó có mặt trên thị trường hơn 10 năm nay. Trong thời gian đó, hệ điều hành này đã nhận được rất nhiều bản vá và Cải tiến mới.Internet Explorer 8 và Windows PowerShell đều được phát triển nhiều năm sau khi phiên bản Windows XP đầu tiên phát hành, nhưng Microsoft vẫn cho phép chúng được sử dụng với Windows XP
Và những dòng máy BOS,KIOS,ATM ….hiện mới thịnh hành trong 1 vài năm nay những ứng dụng mà của nó hiện vẫn chạy trên nền window xp hay 1 vài hđh khác,vậy những thiết bị này tồn tại tới khi nào thì window xp sẽ vẫn còn.
minhgiangbc- Tổng số bài gửi : 24
Join date : 16/09/2011
Age : 37
Đến từ : lâm đồng
Re: Thảo luận Bài 1
5/ Làm sao để biết máy mình có hỗ trợ 64 bit hay không ?TranVanDucHieu I11c đã viết: Sự khác biệt giữa Hệ điều hành 32bit và 64bit !!!
1/ Cách gọi 32 bit hay 64 bit thường cho biết khả năng xử lý dữ liệu của CPU. Với 64 bit, hệ thống sẽ có khả năng làm việc với dung lượng RAM lớn tốt hơn 32 bit. HĐH 64 bit có thể nhận biết và sử dụng dung lượng RAM lớn hơn 4 GB còn với 32 bit, từ Vista SP1 trở về sau, hệ thống sẽ nhận được 4 GB, nhưng sẽ không thể sử dụng được hết 4 GB mà chỉ dùng được tối đa là 3,2 GB mà thôi.
2/ Trên lý thuyết, HĐH 64 bit sẽ chạy nhanh hơn 32 bit trên cùng 1 máy do độ rộng của luồng dữ liệu 64 bit lớn hơn 32 bit (vì 64 lớn hơn 32 ^^).
3/ Có thể chạy các chương trình 32 bit trên hệ thống 64 bit được không ?
Câu trả lời là có thể. Đa số các chương trình thiết kế cho HĐH 32 bit sẽ chạy tốt trên 64 bit. Tuy nhiên, 1 số chương trình như anti-virus, các driver có thể sẽ không hoạt động nếu bạn dùng bản 32 bit.
4/ Bạn sẽ không thể nâng cấp HĐH (Windows) từ 32 bit lên 64 bit mà phải cài mới hoàn toàn.
5/ Làm sao để biết máy mình có hỗ trợ 64 bit hay không ?
Bạn vào Start -> Run (hoặc nhấn đồng thời tổ hợp phím win+ R).
Sau đó gõ lệnh: cmd -> Enter.
Gõ tiếp: Systeminfo
Tìm đến mục: System Type:
Nếu có giá trị là: X86 - base PC
thì win của bạn là 32 bit.
Nếu là X64 thì win của bạn là 64 bit.
Win 64 bit chỉ chạy khi phần cứng của bạn hỗ trợ nó. Thông thường chip Intel due 2 core trở lên thì đã hỗ trợ 64 bit, bên cạnh đó cần tính đến mainboard. Win 64 bit chạy nhanh hơn, chịu các ứng dụng khỏe hơn. Nhưng phần mềm tương thích 64bit không phải là nhiều, vì thế nó chưa phát triển mạnh.
Về cơ bản, các máy tính sử dụng CPU và hệ điều hành (HĐH) 64-bit xử lý dữ liệu lớn hơn rất nhiều so với các máy tính sử dụng 32-bit. Có khá nhiều sự khác biệt giữa 32 và 64-bit, tuy nhiên có 2 vấn đề chính:
1. Khi những chương trình được phát triển hỗ trợ các vi xử lý 64-bit thì thông thường chúng sẽ chạy nhanh hơn trên một vi xử lý 32-bit với cùng một tốc độ.
2. Các vi xử lý 64-bit trữ được nhiều bộ nhớ hơn vi xử lý 32-bit. Có nghĩa là các máy chủ sẽ có thể bổ sung thêm rất nhiều RAM, vì thế có thể lưu trữ khá nhiều dữ liệu trong bộ nhớ.
minhgiangbc- Tổng số bài gửi : 24
Join date : 16/09/2011
Age : 37
Đến từ : lâm đồng
Phân biệt HĐH đa chương với HĐH chia thời gian
Phân biệt
Điểm giống:
- Đều là hệ đa chương
- Nhiều tác vụ
Điểm khác:
- HĐH đa chương: khi một tác vụ không cần đến CPU thì tác vụ khác sẽ được thực thi (không qui định thời gian)
- HĐH chia thời gian: mỗi tác vụ dùng CPU trong một khoảng thời gian có hạn (20ms). Sau đó bị ngắt, tác vụ khác sẽ thực thi, cứ thế xoay vòng
Điểm giống:
- Đều là hệ đa chương
- Nhiều tác vụ
Điểm khác:
- HĐH đa chương: khi một tác vụ không cần đến CPU thì tác vụ khác sẽ được thực thi (không qui định thời gian)
- HĐH chia thời gian: mỗi tác vụ dùng CPU trong một khoảng thời gian có hạn (20ms). Sau đó bị ngắt, tác vụ khác sẽ thực thi, cứ thế xoay vòng
LyHuynhThanhYen (I11C)- Tổng số bài gửi : 15
Join date : 19/09/2011
Trang 6 trong tổng số 7 trang • 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7
Trang 6 trong tổng số 7 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết