Giới thiệu HDD cấu hình RAID(Redundant Array of Independent Disk)
+4
Thuy Trang
khoai_dao
buuhuynh
tranhongnguyen_I82C
8 posters
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Giới thiệu HDD cấu hình RAID(Redundant Array of Independent Disk)
RAID: Một phương phát Dung sai lỗi (Fault Tolerant) dữ liệu khá phổ biến.
Windows NT 4.0/Win2k/Win2k3 chương trình RAID (Redundant Array of Independent Disk hay Inexpesive Disk). Với Software RAID (phần mềm RAID) hệ điều hành chịu trách nhiệm về tất cả các chức năng của RAID, và Server không cần phải sử dụng phần cứng (Hardware RAID) nghĩa là phải trang bị cho Server "RAID Controller" có thể Onboard RAID hay RAID Card.
Phương pháp sử dụng phần mềm là giải pháp tiết kiệm chi phí, nhưng khuyết điểm là chậm hơn, cũng như không tin cậy hơn khi dùng phần cứng. Công cụ cấu hình RAID dùng qua Disk Management (Quản lý disk) trong Microsoft Management Control (MMC). Có rất nhiều RAID, tuy nhiên trong phần này sẽ chỉ đề cập đến một số RAID thông dụng như RAID 0, RAID 1, hay RAID 5.
RAID 0
Còn được gọi là "Striped Volume", nó được sử dụng để gia tăng sự truy cập dử liệu. Trong cấu hình RAID 0 này nó có thể hổ trợ từ 2 disk cho đến 32 physical disk, dử liệu được chia đều ra trên các disk, và nó làm việc như là một logical khối (Volume). Mặc dù nó được gọi là RAID (Redundancy Array of Inexpesive Disk), nhưng thật sự trong cấu hình này nó không có "Redundancy". Với cấu hình RAID này, nếu một trong hai disk của khối RAID này rớt thì sự truy cập dử liệu vào khối này sẽ bị mất hết.
RAID 1
Cấu hình RAID này còn được gọi là cấu hình "Khối Phản Chiếu" (Mirrored Volume), trong cấu hình này dử liệu được mirrored giữa hai physical disk cho mục đích redundancy. Với RAID 1 tất cả những dử liệu được viết vô volume thứ nhất trong khối mirrored thì nó sẽ được viết vô volume thứ hai trong khối này bởi fault tolerant driver ftdisk.sys.
RAID 5
Đây là loại thường được áp dụng trên các Server do khả năng thực hiện và khả năng phục hồi dữ liệu. RAID 5 thường được biết như là "Stripe set with parity". Trong cấu hình RAID này, nó sử dụng ít nhất là 3 và nhiều nhất là 32 physical disks, không chỉ riêng dử liệu được phân phối đều trên các disk mà những thông tin liên kết cũng được phân phối trên các disks, để chắc chắn rằng dữ liệu sẽ được cấu thành lại nếu một trong những disk độc lập bị rớt. Nói đúng hơn là nếu bất kì disk nào trong khối này bị rớt thì bạn có thể thay đổi một disk mới và nó sẽ tự động cấu hình lại (Rebuild) tất cả những dử liệu đã bị mất.
*Các bạn xem có thiếu gì bổ xung thêm nha!!!!thanhks đã xem!!!!!!!!!
Windows NT 4.0/Win2k/Win2k3 chương trình RAID (Redundant Array of Independent Disk hay Inexpesive Disk). Với Software RAID (phần mềm RAID) hệ điều hành chịu trách nhiệm về tất cả các chức năng của RAID, và Server không cần phải sử dụng phần cứng (Hardware RAID) nghĩa là phải trang bị cho Server "RAID Controller" có thể Onboard RAID hay RAID Card.
Phương pháp sử dụng phần mềm là giải pháp tiết kiệm chi phí, nhưng khuyết điểm là chậm hơn, cũng như không tin cậy hơn khi dùng phần cứng. Công cụ cấu hình RAID dùng qua Disk Management (Quản lý disk) trong Microsoft Management Control (MMC). Có rất nhiều RAID, tuy nhiên trong phần này sẽ chỉ đề cập đến một số RAID thông dụng như RAID 0, RAID 1, hay RAID 5.
RAID 0
Còn được gọi là "Striped Volume", nó được sử dụng để gia tăng sự truy cập dử liệu. Trong cấu hình RAID 0 này nó có thể hổ trợ từ 2 disk cho đến 32 physical disk, dử liệu được chia đều ra trên các disk, và nó làm việc như là một logical khối (Volume). Mặc dù nó được gọi là RAID (Redundancy Array of Inexpesive Disk), nhưng thật sự trong cấu hình này nó không có "Redundancy". Với cấu hình RAID này, nếu một trong hai disk của khối RAID này rớt thì sự truy cập dử liệu vào khối này sẽ bị mất hết.
RAID 1
Cấu hình RAID này còn được gọi là cấu hình "Khối Phản Chiếu" (Mirrored Volume), trong cấu hình này dử liệu được mirrored giữa hai physical disk cho mục đích redundancy. Với RAID 1 tất cả những dử liệu được viết vô volume thứ nhất trong khối mirrored thì nó sẽ được viết vô volume thứ hai trong khối này bởi fault tolerant driver ftdisk.sys.
RAID 5
Đây là loại thường được áp dụng trên các Server do khả năng thực hiện và khả năng phục hồi dữ liệu. RAID 5 thường được biết như là "Stripe set with parity". Trong cấu hình RAID này, nó sử dụng ít nhất là 3 và nhiều nhất là 32 physical disks, không chỉ riêng dử liệu được phân phối đều trên các disk mà những thông tin liên kết cũng được phân phối trên các disks, để chắc chắn rằng dữ liệu sẽ được cấu thành lại nếu một trong những disk độc lập bị rớt. Nói đúng hơn là nếu bất kì disk nào trong khối này bị rớt thì bạn có thể thay đổi một disk mới và nó sẽ tự động cấu hình lại (Rebuild) tất cả những dử liệu đã bị mất.
*Các bạn xem có thiếu gì bổ xung thêm nha!!!!thanhks đã xem!!!!!!!!!
tranhongnguyen_I82C- Tổng số bài gửi : 13
Join date : 24/03/2009
Re: Giới thiệu HDD cấu hình RAID(Redundant Array of Independent Disk)
Trình bài như thế thì khá chi tiết và đầy đủ ùi không cần bổ sung thêm gì nửa đâu.Nhưng có điều bạn trình bài lý thuyết không àh có thể hướng dẫn cụ thể chi tiết cách cấu hình cho từng RAID như thế mọi người có thể thực hanh lun.Và mình nghĩ cấu hình RAED rất quan trọng với dân IT hiên nay => đãm bão dữ liệu không bị mất khi một trong các ổ cứng hỏng.Thanks! vì những đóng góp của bạn cho mọi người hĩu thêm:D:P:)
buuhuynh- Tổng số bài gửi : 148
Join date : 06/05/2009
Re: Giới thiệu HDD cấu hình RAID(Redundant Array of Independent Disk)
RAID là gì và có mấy loại RAID ?
--------------------------------------------------------------------------------
Trong những năm gần đây việc đầu tư raid cho máy tính để bàn hoặc cho những hệ thống máy tính lớn là điều cần thiết. Trong vài năm trước nghe nói raid có thể gọi là một thứ gì đó xa xỉ nhưng so với thị trường thiết bị máy tính ngày nay và với việc bị mất dữ liệu, hư ổ cứng thì điều mọi người nghĩ đến đầu tiên là sử dụng raid cho hệ thống của mình. Đa số các mainboard ngày nay đều có công nghệ RAID hoặc có hỗ trợ slot cắm card RAID Controller nhưng không phải ai cũng biết cách sử dụng hiệu quả. Bài viết tôi chỉ giới thiệu thông tin cơ bản về RAID. Về cách cấu hình , create array... raid cứng cũng như raid mềm thì các bạn search trong diễn đàn hoặc google hoặc đọc thêm document của máy.
A. Vậy RAID LÀ GÌ ?
RAID là chữ viết tắt của Redundant Array of Independent Disks. Ban đầu, RAID được sử dụng như một giải pháp phòng hộ vì nó cho phép ghi dữ liệu lên nhiều đĩa cứng cùng lúc. Về sau, RAID đã có nhiều biến thể cho phép không chỉ đảm bảo an toàn dữ liệu mà còn giúp gia tăng đáng kể tốc độ truy xuất dữ liệu từ đĩa cứng. Dưới đây là năm loại RAID được dùng phổ biến:
1. RAID 0
Đây là dạng RAID đang được người dùng ưa thích do khả năng nâng cao hiệu suất trao đổi dữ liệu của đĩa cứng. Đòi hỏi tối thiểu hai đĩa cứng, RAID 0 cho phép máy tính ghi dữ liệu lên chúng theo một phương thức đặc biệt được gọi là Striping. Ví dụ bạn có 8 đoạn dữ liệu được đánh số từ 1 đến 8, các đoạn đánh số lẻ (1,3,5,7) sẽ được ghi lên đĩa cứng đầu tiên và các đoạn đánh số chẵn (2,4,6, sẽ được ghi lên đĩa thứ hai. Để đơn giản hơn, bạn có thể hình dung mình có 100MB dữ liệu và thay vì dồn 100MB vào một đĩa cứng duy nhất, RAID 0 sẽ giúp dồn 50MB vào mỗi đĩa cứng riêng giúp giảm một nửa thời gian làm việc theo lý thuyết. Từ đó bạn có thể dễ dàng suy ra nếu có 4, 8 hay nhiều đĩa cứng hơn nữa thì tốc độ sẽ càng cao hơn. Tuy nghe có vẻ hấp dẫn nhưng trên thực tế, RAID 0 vẫn ẩn chứa nguy cơ mất dữ liệu. Nguyên nhân chính lại nằm ở cách ghi thông tin xé lẻ vì như vậy dữ liệu không nằm hoàn toàn ở một đĩa cứng nào và mỗi khi cần truy xuất thông tin (ví dụ một file nào đó), máy tính sẽ phải tổng hợp từ các đĩa cứng. Nếu một đĩa cứng gặp trục trặc thì thông tin (file) đó coi như không thể đọc được và mất luôn. Thật may mắn là với công nghệ hiện đại, sản phẩm phần cứng khá bền nên những trường hợp mất dữ liệu như vậy xảy ra không nhiều. Có thể thấy RAID 0 thực sự thích hợp cho những người dùng cần truy cập nhanh khối lượng dữ liệu lớn, ví dụ các game thủ hoặc những người chuyên làm đồ hoạ, video số.
2. RAID 1
Đây là dạng RAID cơ bản nhất có khả năng đảm bảo an toàn dữ liệu. Cũng giống như RAID 0, RAID 1 đòi hỏi ít nhất hai đĩa cứng để làm việc. Dữ liệu được ghi vào 2 ổ giống hệt nhau (Mirroring). Trong trường hợp một ổ bị trục trặc, ổ còn lại sẽ tiếp tục hoạt động bình thường. Bạn có thể thay thế ổ đĩa bị hỏng mà không phải lo lắng đến vấn đề thông tin thất lạc. Đối với RAID 1, hiệu năng không phải là yếu tố hàng đầu nên chẳng có gì ngạc nhiên nếu nó không phải là lựa chọn số một cho những người say mê tốc độ. Tuy nhiên đối với những nhà quản trị mạng hoặc những ai phải quản lý nhiều thông tin quan trọng thì hệ thống RAID 1 là thứ không thể thiếu. Dung lượng cuối cùng của hệ thống RAID 1 bằng dung lượng của ổ đơn (hai ổ 80GB chạy RAID 1 sẽ cho hệ thống nhìn thấy duy nhất một ổ RAID 80GB).
3. RAID 0+1
Có bao giờ bạn ao ước một hệ thống lưu trữ nhanh nhẹn như RAID 0, an toàn như RAID 1 hay chưa? Chắc chắn là có và hiển nhiên ước muốn đó không chỉ của riêng bạn. Chính vì thế mà hệ thống RAID kết hợp 0+1 đã ra đời, tổng hợp ưu điểm của cả hai “đàn anh”. Tuy nhiên chi phí cho một hệ thống kiểu này khá đắt, bạn sẽ cần tối thiểu 4 đĩa cứng để chạy RAID 0+1. Dữ liệu sẽ được ghi đồng thời lên 4 đĩa cứng với 2 ổ dạng Striping tăng tốc và 2 ổ dạng Mirroring sao lưu. 4 ổ đĩa này phải giống hệt nhau và khi đưa vào hệ thống RAID 0+1, dung lượng cuối cùng sẽ bằng ½ tổng dung lượng 4 ổ, ví dụ bạn chạy 4 ổ 80GB thì lượng dữ liệu “thấy được” là (4*80)/2 = 160GB.
4. RAID 5
Đây có lẽ là dạng RAID mạnh mẽ nhất cho người dùng văn phòng và gia đình với 3 hoặc 5 đĩa cứng riêng biệt. Dữ liệu và bản sao lưu được chia lên tất cả các ổ cứng. Nguyên tắc này khá rối rắm. Chúng ta quay trở lại ví dụ về 8 đoạn dữ liệu (1- và giờ đây là 3 ổ đĩa cứng. Đoạn dữ liệu số 1 và số 2 sẽ được ghi vào ổ đĩa 1 và 2 riêng rẽ, đoạn sao lưu của chúng được ghi vào ổ cứng 3. Đoạn số 3 và 4 được ghi vào ổ 1 và 3 với đoạn sao lưu tương ứng ghi vào ổ đĩa 2. Đoạn số 5, 6 ghi vào ổ đĩa 2 và 3, còn đoạn sao lưu được ghi vào ổ đĩa 1 và sau đó trình tự này lặp lại, đoạn số 7,8 được ghi vào ổ 1, 2 và đoạn sao lưu ghi vào ổ 3 như ban đầu. Như vậy RAID 5 vừa đảm bảo tốc độ có cải thiện, vừa giữ được tính an toàn cao. Dung lượng đĩa cứng cuối cùng bằng tổng dung lượng đĩa sử dụng trừ đi một ổ. Tức là nếu bạn dùng 3 ổ 80GB thì dung lượng cuối cùng sẽ là 160GB.
5. JBOD
JBOD (Just a Bunch Of Disks) thực tế không phải là một dạng RAID chính thống, nhưng lại có một số đặc điểm liên quan tới RAID và được đa số các thiết bị điều khiển RAID hỗ trợ. JBOD cho phép bạn gắn bao nhiêu ổ đĩa tùy thích vào bộ điều khiển RAID của mình (dĩ nhiên là trong giới hạn cổng cho phép). Sau đó chúng sẽ được “tổng hợp” lại thành một đĩa cứng lớn hơn cho hệ thống sử dụng. Ví dụ bạn cắm vào đó các ổ 10GB, 20GB, 30GB thì thông qua bộ điều khiển RAID có hỗ trợ JBOD, máy tính sẽ nhận ra một ổ đĩa 60GB. Tuy nhiên, lưu ý là JBOD không hề đem lại bất cứ một giá trị phụ trội nào khác: không cải thiện về hiệu năng, không mang lại giải pháp an toàn dữ liệu, chỉ là kết nối và tổng hợp dung lượng mà thôi.
6. Một số loại RAID khác
Ngoài các loại được đề cập ở trên, bạn còn có thể bắt gặp nhiều loại RAID khác nhưng chúng không được sử dụng rộng rãi mà chỉ giới hạn trong các hệ thống máy tính phục vụ mục đích riêng, có thể kể như: Level 2 (Error-Correcting Coding), Level 3 (Bit-Interleaved Parity), Level 4 (Dedicated Parity Drive), Level 6 (Independent Data Disks with Double Parity), Level 10 (Stripe of Mirrors, ngược lại với RAID 0+1), Level 7 (thương hiệu của tập đoàn Storage Computer, cho phép thêm bộ đệm cho RAID 3 và 4), RAID S (phát minh của tập đoàn EMC và được sử dụng trong các hệ thống lưu trữ Symmetrix của họ). Bên cạnh đó còn một số biến thể khác, ví dụ như Intel Matrix Storage cho phép chạy kiểu RAID 0+1 với chỉ 2 ổ cứng hoặc RAID 1.5 của DFI trên các hệ BMC 865, 875. Chúng tuy có nhiều điểm khác biệt nhưng đa phần đều là bản cải tiến của các phương thức RAID truyền thống.
B. BẠN CẦN GÌ ĐỂ CHẠY RAID?
Để chạy được RAID, bạn cần tối thiểu một card điều khiển (có thể là onboard hoặc card rời) và hai ổ đĩa cứng giống nhau. Đĩa cứng có thể ở bất cứ chuẩn nào, từ ATA, Serial ATA hay SCSI, SAS tốt nhất chúng nên hoàn toàn giống nhau vì một nguyên tắc đơn giản là khi hoạt động ở chế độ đồng bộ như RAID, hiệu năng chung của cả hệ thống sẽ bị kéo xuống theo ổ thấp nhất nếu có. Ví dụ khi bạn bắt ổ 160GB chạy RAID với ổ 40GB (bất kể 0 hay 1) thì coi như bạn đã lãng phí 120GB vô ích vì hệ thống điều khiển chỉ coi chúng là một cặp hai ổ cứng 40GB mà thôi (ngoại trừ trường hợp JBOD như đã đề cập). Yếu tố quyết định tới số lượng ổ đĩa chính là kiểu RAID mà bạn định chạy. Chuẩn giao tiếp không quan trọng lắm, đặc biệt là giữa SATA và ATA. Một số BMC đời mới cho phép chạy RAID theo kiểu trộn lẫn cả hai giao tiếp này với nhau. Điển hình như MSI K8N Neo2 Platinum hay dòng DFI Lanparty NForce4. Bộ điều khiển RAID (RAID Controller) là nơi tập trung các cáp dữ liệu nối các đĩa cứng trong hệ thống RAID và nó xử lý toàn bộ dữ liệu đi qua đó. Bộ điều khiển này có nhiều dạng khác nhau, từ card tách rời cho dến chip tích hợp trên BMC. Đối với các hệ thống PC, tuy chưa phổ biến nhưng việc chọn mua BMC có RAID tích hợp là điều nên làm vì nói chung đây là một trong những giải pháp cải thiện hiệu năng hệ thống rõ rệt và rẻ tiền nhất, chưa tính tới giá trị an toàn dữ liệu của chúng. Một thành phần khác của hệ thống RAID không bắt buộc phải có nhưng đôi khi là hữu dụng, đó là các khay hoán đổi nóng ổ đĩa. Nó cho phép bạn thay các đĩa cứng gặp trục trặc trong khi hệ thống đang hoạt động mà không phải tắt máy (chỉ đơn giản là mở khóa, rút ổ ra và cắm ổ mới vào). Thiết bị này thường sử dụng với ổ cứng SCSI hoặc SAS và khá quan trọng đối với các hệ thống máy chủ vốn yêu cầu hoạt động liên tục. Về phần mềm thì khá đơn giản vì hầu hết các hệ điều hành hiện đại đều hỗ trợ RAID rất tốt, đặc biệt là Microsoft Windows. Nếu bạn sử dụng Windows XP, 2k3... thì bổ sung RAID khá dễ dàng. Quan trọng nhất là trình điều khiển nhưng thật tuyệt khi chúng đã được kèm sẵn với thiết bị.
--------------------------------------------------------------------------------
Trong những năm gần đây việc đầu tư raid cho máy tính để bàn hoặc cho những hệ thống máy tính lớn là điều cần thiết. Trong vài năm trước nghe nói raid có thể gọi là một thứ gì đó xa xỉ nhưng so với thị trường thiết bị máy tính ngày nay và với việc bị mất dữ liệu, hư ổ cứng thì điều mọi người nghĩ đến đầu tiên là sử dụng raid cho hệ thống của mình. Đa số các mainboard ngày nay đều có công nghệ RAID hoặc có hỗ trợ slot cắm card RAID Controller nhưng không phải ai cũng biết cách sử dụng hiệu quả. Bài viết tôi chỉ giới thiệu thông tin cơ bản về RAID. Về cách cấu hình , create array... raid cứng cũng như raid mềm thì các bạn search trong diễn đàn hoặc google hoặc đọc thêm document của máy.
A. Vậy RAID LÀ GÌ ?
RAID là chữ viết tắt của Redundant Array of Independent Disks. Ban đầu, RAID được sử dụng như một giải pháp phòng hộ vì nó cho phép ghi dữ liệu lên nhiều đĩa cứng cùng lúc. Về sau, RAID đã có nhiều biến thể cho phép không chỉ đảm bảo an toàn dữ liệu mà còn giúp gia tăng đáng kể tốc độ truy xuất dữ liệu từ đĩa cứng. Dưới đây là năm loại RAID được dùng phổ biến:
1. RAID 0
Đây là dạng RAID đang được người dùng ưa thích do khả năng nâng cao hiệu suất trao đổi dữ liệu của đĩa cứng. Đòi hỏi tối thiểu hai đĩa cứng, RAID 0 cho phép máy tính ghi dữ liệu lên chúng theo một phương thức đặc biệt được gọi là Striping. Ví dụ bạn có 8 đoạn dữ liệu được đánh số từ 1 đến 8, các đoạn đánh số lẻ (1,3,5,7) sẽ được ghi lên đĩa cứng đầu tiên và các đoạn đánh số chẵn (2,4,6, sẽ được ghi lên đĩa thứ hai. Để đơn giản hơn, bạn có thể hình dung mình có 100MB dữ liệu và thay vì dồn 100MB vào một đĩa cứng duy nhất, RAID 0 sẽ giúp dồn 50MB vào mỗi đĩa cứng riêng giúp giảm một nửa thời gian làm việc theo lý thuyết. Từ đó bạn có thể dễ dàng suy ra nếu có 4, 8 hay nhiều đĩa cứng hơn nữa thì tốc độ sẽ càng cao hơn. Tuy nghe có vẻ hấp dẫn nhưng trên thực tế, RAID 0 vẫn ẩn chứa nguy cơ mất dữ liệu. Nguyên nhân chính lại nằm ở cách ghi thông tin xé lẻ vì như vậy dữ liệu không nằm hoàn toàn ở một đĩa cứng nào và mỗi khi cần truy xuất thông tin (ví dụ một file nào đó), máy tính sẽ phải tổng hợp từ các đĩa cứng. Nếu một đĩa cứng gặp trục trặc thì thông tin (file) đó coi như không thể đọc được và mất luôn. Thật may mắn là với công nghệ hiện đại, sản phẩm phần cứng khá bền nên những trường hợp mất dữ liệu như vậy xảy ra không nhiều. Có thể thấy RAID 0 thực sự thích hợp cho những người dùng cần truy cập nhanh khối lượng dữ liệu lớn, ví dụ các game thủ hoặc những người chuyên làm đồ hoạ, video số.
2. RAID 1
Đây là dạng RAID cơ bản nhất có khả năng đảm bảo an toàn dữ liệu. Cũng giống như RAID 0, RAID 1 đòi hỏi ít nhất hai đĩa cứng để làm việc. Dữ liệu được ghi vào 2 ổ giống hệt nhau (Mirroring). Trong trường hợp một ổ bị trục trặc, ổ còn lại sẽ tiếp tục hoạt động bình thường. Bạn có thể thay thế ổ đĩa bị hỏng mà không phải lo lắng đến vấn đề thông tin thất lạc. Đối với RAID 1, hiệu năng không phải là yếu tố hàng đầu nên chẳng có gì ngạc nhiên nếu nó không phải là lựa chọn số một cho những người say mê tốc độ. Tuy nhiên đối với những nhà quản trị mạng hoặc những ai phải quản lý nhiều thông tin quan trọng thì hệ thống RAID 1 là thứ không thể thiếu. Dung lượng cuối cùng của hệ thống RAID 1 bằng dung lượng của ổ đơn (hai ổ 80GB chạy RAID 1 sẽ cho hệ thống nhìn thấy duy nhất một ổ RAID 80GB).
3. RAID 0+1
Có bao giờ bạn ao ước một hệ thống lưu trữ nhanh nhẹn như RAID 0, an toàn như RAID 1 hay chưa? Chắc chắn là có và hiển nhiên ước muốn đó không chỉ của riêng bạn. Chính vì thế mà hệ thống RAID kết hợp 0+1 đã ra đời, tổng hợp ưu điểm của cả hai “đàn anh”. Tuy nhiên chi phí cho một hệ thống kiểu này khá đắt, bạn sẽ cần tối thiểu 4 đĩa cứng để chạy RAID 0+1. Dữ liệu sẽ được ghi đồng thời lên 4 đĩa cứng với 2 ổ dạng Striping tăng tốc và 2 ổ dạng Mirroring sao lưu. 4 ổ đĩa này phải giống hệt nhau và khi đưa vào hệ thống RAID 0+1, dung lượng cuối cùng sẽ bằng ½ tổng dung lượng 4 ổ, ví dụ bạn chạy 4 ổ 80GB thì lượng dữ liệu “thấy được” là (4*80)/2 = 160GB.
4. RAID 5
Đây có lẽ là dạng RAID mạnh mẽ nhất cho người dùng văn phòng và gia đình với 3 hoặc 5 đĩa cứng riêng biệt. Dữ liệu và bản sao lưu được chia lên tất cả các ổ cứng. Nguyên tắc này khá rối rắm. Chúng ta quay trở lại ví dụ về 8 đoạn dữ liệu (1- và giờ đây là 3 ổ đĩa cứng. Đoạn dữ liệu số 1 và số 2 sẽ được ghi vào ổ đĩa 1 và 2 riêng rẽ, đoạn sao lưu của chúng được ghi vào ổ cứng 3. Đoạn số 3 và 4 được ghi vào ổ 1 và 3 với đoạn sao lưu tương ứng ghi vào ổ đĩa 2. Đoạn số 5, 6 ghi vào ổ đĩa 2 và 3, còn đoạn sao lưu được ghi vào ổ đĩa 1 và sau đó trình tự này lặp lại, đoạn số 7,8 được ghi vào ổ 1, 2 và đoạn sao lưu ghi vào ổ 3 như ban đầu. Như vậy RAID 5 vừa đảm bảo tốc độ có cải thiện, vừa giữ được tính an toàn cao. Dung lượng đĩa cứng cuối cùng bằng tổng dung lượng đĩa sử dụng trừ đi một ổ. Tức là nếu bạn dùng 3 ổ 80GB thì dung lượng cuối cùng sẽ là 160GB.
5. JBOD
JBOD (Just a Bunch Of Disks) thực tế không phải là một dạng RAID chính thống, nhưng lại có một số đặc điểm liên quan tới RAID và được đa số các thiết bị điều khiển RAID hỗ trợ. JBOD cho phép bạn gắn bao nhiêu ổ đĩa tùy thích vào bộ điều khiển RAID của mình (dĩ nhiên là trong giới hạn cổng cho phép). Sau đó chúng sẽ được “tổng hợp” lại thành một đĩa cứng lớn hơn cho hệ thống sử dụng. Ví dụ bạn cắm vào đó các ổ 10GB, 20GB, 30GB thì thông qua bộ điều khiển RAID có hỗ trợ JBOD, máy tính sẽ nhận ra một ổ đĩa 60GB. Tuy nhiên, lưu ý là JBOD không hề đem lại bất cứ một giá trị phụ trội nào khác: không cải thiện về hiệu năng, không mang lại giải pháp an toàn dữ liệu, chỉ là kết nối và tổng hợp dung lượng mà thôi.
6. Một số loại RAID khác
Ngoài các loại được đề cập ở trên, bạn còn có thể bắt gặp nhiều loại RAID khác nhưng chúng không được sử dụng rộng rãi mà chỉ giới hạn trong các hệ thống máy tính phục vụ mục đích riêng, có thể kể như: Level 2 (Error-Correcting Coding), Level 3 (Bit-Interleaved Parity), Level 4 (Dedicated Parity Drive), Level 6 (Independent Data Disks with Double Parity), Level 10 (Stripe of Mirrors, ngược lại với RAID 0+1), Level 7 (thương hiệu của tập đoàn Storage Computer, cho phép thêm bộ đệm cho RAID 3 và 4), RAID S (phát minh của tập đoàn EMC và được sử dụng trong các hệ thống lưu trữ Symmetrix của họ). Bên cạnh đó còn một số biến thể khác, ví dụ như Intel Matrix Storage cho phép chạy kiểu RAID 0+1 với chỉ 2 ổ cứng hoặc RAID 1.5 của DFI trên các hệ BMC 865, 875. Chúng tuy có nhiều điểm khác biệt nhưng đa phần đều là bản cải tiến của các phương thức RAID truyền thống.
B. BẠN CẦN GÌ ĐỂ CHẠY RAID?
Để chạy được RAID, bạn cần tối thiểu một card điều khiển (có thể là onboard hoặc card rời) và hai ổ đĩa cứng giống nhau. Đĩa cứng có thể ở bất cứ chuẩn nào, từ ATA, Serial ATA hay SCSI, SAS tốt nhất chúng nên hoàn toàn giống nhau vì một nguyên tắc đơn giản là khi hoạt động ở chế độ đồng bộ như RAID, hiệu năng chung của cả hệ thống sẽ bị kéo xuống theo ổ thấp nhất nếu có. Ví dụ khi bạn bắt ổ 160GB chạy RAID với ổ 40GB (bất kể 0 hay 1) thì coi như bạn đã lãng phí 120GB vô ích vì hệ thống điều khiển chỉ coi chúng là một cặp hai ổ cứng 40GB mà thôi (ngoại trừ trường hợp JBOD như đã đề cập). Yếu tố quyết định tới số lượng ổ đĩa chính là kiểu RAID mà bạn định chạy. Chuẩn giao tiếp không quan trọng lắm, đặc biệt là giữa SATA và ATA. Một số BMC đời mới cho phép chạy RAID theo kiểu trộn lẫn cả hai giao tiếp này với nhau. Điển hình như MSI K8N Neo2 Platinum hay dòng DFI Lanparty NForce4. Bộ điều khiển RAID (RAID Controller) là nơi tập trung các cáp dữ liệu nối các đĩa cứng trong hệ thống RAID và nó xử lý toàn bộ dữ liệu đi qua đó. Bộ điều khiển này có nhiều dạng khác nhau, từ card tách rời cho dến chip tích hợp trên BMC. Đối với các hệ thống PC, tuy chưa phổ biến nhưng việc chọn mua BMC có RAID tích hợp là điều nên làm vì nói chung đây là một trong những giải pháp cải thiện hiệu năng hệ thống rõ rệt và rẻ tiền nhất, chưa tính tới giá trị an toàn dữ liệu của chúng. Một thành phần khác của hệ thống RAID không bắt buộc phải có nhưng đôi khi là hữu dụng, đó là các khay hoán đổi nóng ổ đĩa. Nó cho phép bạn thay các đĩa cứng gặp trục trặc trong khi hệ thống đang hoạt động mà không phải tắt máy (chỉ đơn giản là mở khóa, rút ổ ra và cắm ổ mới vào). Thiết bị này thường sử dụng với ổ cứng SCSI hoặc SAS và khá quan trọng đối với các hệ thống máy chủ vốn yêu cầu hoạt động liên tục. Về phần mềm thì khá đơn giản vì hầu hết các hệ điều hành hiện đại đều hỗ trợ RAID rất tốt, đặc biệt là Microsoft Windows. Nếu bạn sử dụng Windows XP, 2k3... thì bổ sung RAID khá dễ dàng. Quan trọng nhất là trình điều khiển nhưng thật tuyệt khi chúng đã được kèm sẵn với thiết bị.
khoai_dao- Tổng số bài gửi : 35
Join date : 13/04/2009
Re: Giới thiệu HDD cấu hình RAID(Redundant Array of Independent Disk)
Thiết lập RAID bằng HĐH
RAID đc thiết lập bằng HĐH được gọi là RAID mềm (quản lý bằng phần mềm) trái ngược với RADI cứng (quản lý bằng phần cứng, vd như card RAID).
Các HĐH hỗ trợ RAID:
Windows 2000, XP: RAID 0
Windows Server: RAID 0, 1, 5
Linux: RAID 0, 1, 4, 5, 6
Solaris 10: RAID 0, 1, 5, 6
Ở đây mình sẽ trình bày cách thiết lập RAID trên WIndows:
- Vào Control Panel - Administrative Tools - Computer Management - Disk Management.
- Thông thường, Windows sẽ quản lý đĩa cứng của bạn dưới dạng Basic, chỉ tạo được 4 Primary Partition và 1 Extended Partition, để có thể tạo RAID trên Windows, ta phải chuyển ổ đĩa thành dạng Dynamic. Right click (RC) vào ổ đĩa cần chuyển, chọn "Convert to Dynamic Disk. "
- Sau khi đã chuyển đĩa về dạng Dynamic, RC vào disk bạn cần tạo RAID, chọn "New Volume", Windows sẽ đưa bạn đến New Volume Wizard, ở đây bạn có thể chọn cấu hình RAID bạn cần cài đặt:
Stripped:RAID 0
Mirrored: RAID 1
RAID - 5: dễ hiểu mà
- Sau đó bạn sẽ add những HDD nào mà bạn muốn tạo thành 1 RAID
- Sau khi chọn các ổ cứng để tạo thành 1 RAID, công việc còn lại của bạn chỉ là đặt tên cho volum RAID vừa tạo, chọn kiểu format,... giống như là tạo một partition mới vậy thôi, và Next, next liên tục cho tới khi hoàn thành
RAID đc thiết lập bằng HĐH được gọi là RAID mềm (quản lý bằng phần mềm) trái ngược với RADI cứng (quản lý bằng phần cứng, vd như card RAID).
Các HĐH hỗ trợ RAID:
Windows 2000, XP: RAID 0
Windows Server: RAID 0, 1, 5
Linux: RAID 0, 1, 4, 5, 6
Solaris 10: RAID 0, 1, 5, 6
Ở đây mình sẽ trình bày cách thiết lập RAID trên WIndows:
- Vào Control Panel - Administrative Tools - Computer Management - Disk Management.
- Thông thường, Windows sẽ quản lý đĩa cứng của bạn dưới dạng Basic, chỉ tạo được 4 Primary Partition và 1 Extended Partition, để có thể tạo RAID trên Windows, ta phải chuyển ổ đĩa thành dạng Dynamic. Right click (RC) vào ổ đĩa cần chuyển, chọn "Convert to Dynamic Disk. "
- Sau khi đã chuyển đĩa về dạng Dynamic, RC vào disk bạn cần tạo RAID, chọn "New Volume", Windows sẽ đưa bạn đến New Volume Wizard, ở đây bạn có thể chọn cấu hình RAID bạn cần cài đặt:
Stripped:RAID 0
Mirrored: RAID 1
RAID - 5: dễ hiểu mà
- Sau đó bạn sẽ add những HDD nào mà bạn muốn tạo thành 1 RAID
- Sau khi chọn các ổ cứng để tạo thành 1 RAID, công việc còn lại của bạn chỉ là đặt tên cho volum RAID vừa tạo, chọn kiểu format,... giống như là tạo một partition mới vậy thôi, và Next, next liên tục cho tới khi hoàn thành
Thuy Trang- Tổng số bài gửi : 25
Join date : 22/02/2009
Re: Giới thiệu HDD cấu hình RAID(Redundant Array of Independent Disk)
Trong mô hình OSI(mô hình 7 lớp) thì lớp Application là lớp thứ 7, làm raid như các bạn hướng dẫn ở trên là Raid của HDH windows server, như các bạn đã biết rồi đó server đã gánh cái AD(Active Directory) là quá nặng nề vậy mà còn quản lý raid thì chậm lắm(đặt biệt là raid 5). Nếu ta dựng thêm một server khác để chạy raid thì tốn kinh phí cho hardware và license windows.
Để khắc phục điều này ta chỉ cần mua một Card Raid chỉ vài chục USD là sẽ làm được ngay, bởi vì trên card raid có HDH mini riêng để quản lý chuyện này hơn nữa đây chỉ là lớp Physical nên chạy rất nhanh, mà Windows không hề biết gì cả.
Chút ý kiến
Để khắc phục điều này ta chỉ cần mua một Card Raid chỉ vài chục USD là sẽ làm được ngay, bởi vì trên card raid có HDH mini riêng để quản lý chuyện này hơn nữa đây chỉ là lớp Physical nên chạy rất nhanh, mà Windows không hề biết gì cả.
Chút ý kiến
ITPRO- Tổng số bài gửi : 73
Join date : 19/02/2009
Age : 46
Re: Giới thiệu về RAID (Redundant Array of Independent Disk)
Mình cũng xin góp chút về RAID.
RAID: Một phương pháp Dung sai lỗi (Fault Tolerant) dữ liệu khá phổ biến.
Windows NT 4.0/Win2k/Win2k3 chương trình RAID (Redundant Array of Independent Disk hay Inexpesive Disk). Với Software RAID (phần mềm RAID) hệ điều hành chịu trách nhiệm về tất cả các chức năng của RAID, và Server không cần phải sử dụng phần cứng (Hardware RAID) nghĩa là phải trang bị cho Server "RAID Controller" có thể Onboard RAID hay RAID Card.
Phương pháp sử dụng phần mềm là giải pháp tiết kiệm chi phí, nhưng khuyết điểm là chậm hơn, cũng như không tin cậy hơn khi dùng phần cứng. Công cụ cấu hình RAID dùng qua Disk Management (Quản lý disk) trong Microsoft Management Control (MMC). Có rất nhiều RAID, tuy nhiên trong phần này sẽ chỉ đề cập đến một số RAID thông dụng như RAID 0, RAID 1, hay RAID 5.
RAID 0
Còn được gọi là "Striped Volume", nó được sử dụng để gia tăng sự truy cập dữ liệu. Trong cấu hình RAID 0 này nó có thể hỗ trợ từ 2 disk cho đến 32 physical disk, dữ liệu được chia đều ra trên các disk, và nó làm việc như là một logical khối (Volume). Mặc dù nó được gọi là RAID (Redundancy Array of Inexpesive Disk), nhưng thật sự trong cấu hình này nó không có "Redundancy". Với cấu hình RAID này, nếu một trong hai disk của khối RAID này rớt thì sự truy cập dữ liệu vào khối này sẽ bị mất hết.
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
:52:=> Dùng cải tiến tốc độ truy xuất đĩa (High Performance)
RAID 1
Cấu hình RAID này còn được gọi là cấu hình "Khối Phản Chiếu" (Mirrored Volume), trong cấu hình này dữ liệu được mirrored giữa hai physical disk cho mục đích redundancy. Với RAID 1 tất cả những dữ liệu được viết vô volume thứ nhất trong khối mirrored thì nó sẽ được viết vô volume thứ hai trong khối này bởi fault tolerant driver ftdisk.sys.
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
:52:=> Tiêu chuẩn dùng để dung sai lỗi OS
RAID 2
Được thiết kế để sử dụng cho các ổ không có có chế tự dộng kiểm tra lỗi, từ khi có các ổ SCSI hiếm khi được sử dụng vì các ổ này đã có sẵn.
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
RAID 3
Dữ liệu được chia thành byte-level striping và ghi lên đĩa. Để dành một ổ cho việc kiểm tra.
Yêu cầu ít nhất có 3 đĩa mới thực hiện được.
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
RAID 4
Dữ liệu được chia thành block-level striping ( giống như level 0 ) và ghi lên đĩa. Trong trường hợp có một ổ bị hỏng, nó sẽ tạo ra một đĩa thay thế từ đĩa parity.
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
RAID 5
Đây là loại thường được áp dụng trên các Server do khả năng thực hiện và khả năng phục hồi dữ liệu. RAID 5 thường được biết như là "Stripe set with parity". Trong cấu hình RAID này, nó sử dụng ít nhất là 3 và nhiều nhất là 32 physical disks, không chỉ riêng dữ liệu được phân phối đều trên các disk mà những thông tin liên kết cũng được phân phối trên các disks, để chắc chắn rằng dữ liệu sẽ được cấu thành lại nếu một trong những disk độc lập bị rớt. Nói đúng hơn là nếu bất kì disk nào trong khối này bị rớt thì bạn có thể thay đổi một disk mới và nó sẽ tự động cấu hình lại (Rebuild) tất cả những dữ liệu đã bị mất.
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
:52:=> Tiêu chuẩn dung sai dữ liệu
RAID 6
Là dạng mở rộng của RAID 5
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
RAID 10
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
RAID 50
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
RAID 0 1
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
Tham khảo về RAID:
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
RAID: Một phương pháp Dung sai lỗi (Fault Tolerant) dữ liệu khá phổ biến.
Windows NT 4.0/Win2k/Win2k3 chương trình RAID (Redundant Array of Independent Disk hay Inexpesive Disk). Với Software RAID (phần mềm RAID) hệ điều hành chịu trách nhiệm về tất cả các chức năng của RAID, và Server không cần phải sử dụng phần cứng (Hardware RAID) nghĩa là phải trang bị cho Server "RAID Controller" có thể Onboard RAID hay RAID Card.
Phương pháp sử dụng phần mềm là giải pháp tiết kiệm chi phí, nhưng khuyết điểm là chậm hơn, cũng như không tin cậy hơn khi dùng phần cứng. Công cụ cấu hình RAID dùng qua Disk Management (Quản lý disk) trong Microsoft Management Control (MMC). Có rất nhiều RAID, tuy nhiên trong phần này sẽ chỉ đề cập đến một số RAID thông dụng như RAID 0, RAID 1, hay RAID 5.
RAID 0
Còn được gọi là "Striped Volume", nó được sử dụng để gia tăng sự truy cập dữ liệu. Trong cấu hình RAID 0 này nó có thể hỗ trợ từ 2 disk cho đến 32 physical disk, dữ liệu được chia đều ra trên các disk, và nó làm việc như là một logical khối (Volume). Mặc dù nó được gọi là RAID (Redundancy Array of Inexpesive Disk), nhưng thật sự trong cấu hình này nó không có "Redundancy". Với cấu hình RAID này, nếu một trong hai disk của khối RAID này rớt thì sự truy cập dữ liệu vào khối này sẽ bị mất hết.
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
:52:=> Dùng cải tiến tốc độ truy xuất đĩa (High Performance)
RAID 1
Cấu hình RAID này còn được gọi là cấu hình "Khối Phản Chiếu" (Mirrored Volume), trong cấu hình này dữ liệu được mirrored giữa hai physical disk cho mục đích redundancy. Với RAID 1 tất cả những dữ liệu được viết vô volume thứ nhất trong khối mirrored thì nó sẽ được viết vô volume thứ hai trong khối này bởi fault tolerant driver ftdisk.sys.
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
:52:=> Tiêu chuẩn dùng để dung sai lỗi OS
RAID 2
Được thiết kế để sử dụng cho các ổ không có có chế tự dộng kiểm tra lỗi, từ khi có các ổ SCSI hiếm khi được sử dụng vì các ổ này đã có sẵn.
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
RAID 3
Dữ liệu được chia thành byte-level striping và ghi lên đĩa. Để dành một ổ cho việc kiểm tra.
Yêu cầu ít nhất có 3 đĩa mới thực hiện được.
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
RAID 4
Dữ liệu được chia thành block-level striping ( giống như level 0 ) và ghi lên đĩa. Trong trường hợp có một ổ bị hỏng, nó sẽ tạo ra một đĩa thay thế từ đĩa parity.
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
RAID 5
Đây là loại thường được áp dụng trên các Server do khả năng thực hiện và khả năng phục hồi dữ liệu. RAID 5 thường được biết như là "Stripe set with parity". Trong cấu hình RAID này, nó sử dụng ít nhất là 3 và nhiều nhất là 32 physical disks, không chỉ riêng dữ liệu được phân phối đều trên các disk mà những thông tin liên kết cũng được phân phối trên các disks, để chắc chắn rằng dữ liệu sẽ được cấu thành lại nếu một trong những disk độc lập bị rớt. Nói đúng hơn là nếu bất kì disk nào trong khối này bị rớt thì bạn có thể thay đổi một disk mới và nó sẽ tự động cấu hình lại (Rebuild) tất cả những dữ liệu đã bị mất.
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
:52:=> Tiêu chuẩn dung sai dữ liệu
RAID 6
Là dạng mở rộng của RAID 5
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
RAID 10
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
RAID 50
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
RAID 0 1
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
Tham khảo về RAID:
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
[Only Registered And Activated Users Can See Links]
Lethanhtruc- Tổng số bài gửi : 64
Join date : 24/03/2009
update about RAID
RAID là viết tắt của Redundant Arrays of Independent Disks (Các dãy đĩa (cứng) dư thừa độc lập). RAID được ứng dụng cho các workstation và máy chủ, ngày nay đã được dùng cho máy để bàn với mục đích làm tăng tốc quá trình chuyển tài dữ liệu của đĩa cứng. Nguyên lý của RAID là đổi dung lượng lấy tốc độ: nghĩa là tốc độ chuyển tải dữ liệu sẽ tăng nếu dữ liệu được chia đều cho các đĩa cứng hoạt động đồng thời. Để thiết lập được một hệ thống RAID ta cần phải có ít nhất 2 đĩa cứng trở lên.
Hiện nay có các chuẩn RAID:
RAID 0: Trong chuẩn RAID này, các đĩa cứng này được xếp thành các dãy (arrays). Dữ liệu được bộ điều khiển (RAID controller) phân bổ đều trên các đĩa trên dãy theo hàng ngang (data stripping). Dung lượng của một hệ thống RAID sẽ bằng dung lượng của dãy mà có tổng dung lượng các đĩa nhỏ nhất. Ưu điểm của RAID 0 là dữ liệu được chuyển tải rất nhanh nhưng nhược điểm của nó là chỉ cần một trong các đĩa của hệ thống bị trục trặc thì toàn bộ hệ thống sẽ đổ vỡ vì dữ liệu bị gián đoạn. RAID 0 đuợc sử dụng nhiều ở các ứng dụng máy tính để bàn.
RAID 1: RAID 1 khắc phục nhược điểm trên của RAID 0. Trong RAID 1, số lượng các dãy luôn là một số chẵn và 2 dãy kế cận chứa cùng một dữ liệu giống nhau. Khi đó nếu một đĩa bị trục trặc thì đĩa kế cân của nó vẫn có thể tiếp tục hoạt động, dữ liêu không bị mất mát và gián đoạn. Ở RAID 1, số lượng đĩa sử dụng có thể gấp đôi so với RAID 0 nhưng bù lại độ tin cậy lại cao.
RAID 2, RAID 3: các chuẩn này giống như RAID 1 nhưng có dùng thêm một đĩa để ghi nhận và sửa các lỗi trong việc phân bố dữ liệu ở các đĩa (Error Checking and Correction), làm nâng cao hơn độ tinh cậy của hệ thống.
RAID 4, RAID 5: cũng giống như RAID 2, 3 nhưng thông tin về lỗi phân bố trên được chia đều trên các đĩa thành viên của các dãy. Điều này sẽ làm tiết kiệm thời gian truy cập các đĩa hơn so với hai chuẩn RAID 2, 3.
Các chuẩn RAID 1-5 thường được sử dụng trong các servers hay các cơ sở dữ liệu do nhu cầu cao về độ tinh cậy của dữ liệu. Trong chương trình BIOS setup của bạn sẽ có một tiện ích của nhà sản xuất chip RAID dùng để thiết lập các dãy đĩa. Bạn theo hướng dẫn trong tài liêu đi kèm mainboard mà thiết lập.
thanks & Regards
NetAndSoft
thoaitran@thp.com.vn
trantanthoai@gmail.com
www.thp.com.vn
Hiện nay có các chuẩn RAID:
RAID 0: Trong chuẩn RAID này, các đĩa cứng này được xếp thành các dãy (arrays). Dữ liệu được bộ điều khiển (RAID controller) phân bổ đều trên các đĩa trên dãy theo hàng ngang (data stripping). Dung lượng của một hệ thống RAID sẽ bằng dung lượng của dãy mà có tổng dung lượng các đĩa nhỏ nhất. Ưu điểm của RAID 0 là dữ liệu được chuyển tải rất nhanh nhưng nhược điểm của nó là chỉ cần một trong các đĩa của hệ thống bị trục trặc thì toàn bộ hệ thống sẽ đổ vỡ vì dữ liệu bị gián đoạn. RAID 0 đuợc sử dụng nhiều ở các ứng dụng máy tính để bàn.
RAID 1: RAID 1 khắc phục nhược điểm trên của RAID 0. Trong RAID 1, số lượng các dãy luôn là một số chẵn và 2 dãy kế cận chứa cùng một dữ liệu giống nhau. Khi đó nếu một đĩa bị trục trặc thì đĩa kế cân của nó vẫn có thể tiếp tục hoạt động, dữ liêu không bị mất mát và gián đoạn. Ở RAID 1, số lượng đĩa sử dụng có thể gấp đôi so với RAID 0 nhưng bù lại độ tin cậy lại cao.
RAID 2, RAID 3: các chuẩn này giống như RAID 1 nhưng có dùng thêm một đĩa để ghi nhận và sửa các lỗi trong việc phân bố dữ liệu ở các đĩa (Error Checking and Correction), làm nâng cao hơn độ tinh cậy của hệ thống.
RAID 4, RAID 5: cũng giống như RAID 2, 3 nhưng thông tin về lỗi phân bố trên được chia đều trên các đĩa thành viên của các dãy. Điều này sẽ làm tiết kiệm thời gian truy cập các đĩa hơn so với hai chuẩn RAID 2, 3.
Các chuẩn RAID 1-5 thường được sử dụng trong các servers hay các cơ sở dữ liệu do nhu cầu cao về độ tinh cậy của dữ liệu. Trong chương trình BIOS setup của bạn sẽ có một tiện ích của nhà sản xuất chip RAID dùng để thiết lập các dãy đĩa. Bạn theo hướng dẫn trong tài liêu đi kèm mainboard mà thiết lập.
thanks & Regards
NetAndSoft
thoaitran@thp.com.vn
trantanthoai@gmail.com
www.thp.com.vn
NetAndSoft- Tổng số bài gửi : 6
Join date : 12/05/2009
SAN Là gì?
Storage Area Network (SAN) là một mạng được thiết kế cho việc thêm các thiết bị lưu trữ cho máy chủ một cách dễ dàng như: Disk Aray Controllers, hay Tape Libraries
Với những ưu điểm nổi chội SANs đã trở thành một giải pháp rất tốt cho lưu trữ thông tin cho doanh nghiệp hay tổ chức. SAN cho phép kết nối từ xa tới các thiết bị lưu trữ trên mạng như: Disks và Tape drivers. Các thiết bị lưu trữ trên mạng, hay các ứng dụng chạy trên đó được thể hiện trên máy chủ như một thiết bị của máy chủ (as locally attached divices)
Có hai sự khác nhau cơ bản trong các thành phần của SANs
1. Mạng (network) có tác dụng truyền thông tin giữa thiết bị lưu trữ và hệ thống máy tính. Một SAN bao gồm một cấu trúc truyền tin, nó cung cấp kết nối vật lý, và quản lý các lớp, tổ chức các kết nối, các thiết bị lưu trữ, và hệ thống máy tính sao cho dữ liệu truyền trên đó với tốc độ cao và tính bảo mật. Giới hạn của SAN thường được nhận biết với dịch vụ Block I/O đúng hơn là với dịch vụ File Access.
2. Một hệ thống lưu trữ bao gồm các thiết bị lưu trữ, hệ thống máy tính, hay các ứng dụng chạy trên nó, và một phần rất quan trọng là các phần mềm điều khiển, quá trình truyền thông tin qua mạng
Định nghĩa SAN
Lưu trữ mạng có thể được hiểu như một phương pháp truy cập dữ liệu ứng dụng trên nền tảng mạng mà quá trình truyền dữ liệu trên mạng tương tự như quá trình truyền dữ liệu từ các thiết bị quen thuộc trên máy chủ như Disks Drivers như ATA, SCSI.
Trong một mạng lưu trữ, một máy chủ sử dụng một yêu cầu cho một gói dữ liệu cụ thể hay một dữ liệu cụ thể, từ một đĩa lưu trữ và các yêu cầu được đáp ứng. Phương pháp này được biết là block storage. Các thiết bị được làm việc như một thiết bị lưu trữ bên trong máy chủ và được truy cập một cách bình thường thông qua các yêu cầu cụ thể và quá trình đáp ứng bằng cách gửi các yêu cầu và nhận được trên môi trường mạng mà thôi.
Theo truyền thống phương pháp truy cập vào file như SMB/CIFS hay NFS, một máy chủ sử dụng các yêu cầu cho một file như một thành phần của hệ thống file trên máy, và được quản lý bình thường với máy chủ. Quá trình điều khiển đó được quyết định từ tầng vật lý của dữ liệu, truy cập vào nó như một ổ đĩa bên trong máy chủ và được điều khiển và sử dụng trực tiếp trên máy chủ. Chỉ khác một điều dữ liệu bình thường thông qua hệ thống bus còn SAN dựa trên nền mạng.
Các hệ thống lưu trữ mạng sử dụng giao thức SCSI cho quá trình truyền dữ liệu từ máy chủ đến các thiết bị lưu trữ, không thông qua các Bus hệ thống. Cụ thể tầng vật lý của SAN được sử dụng dựa trên các cổng quang để truyền dữ liệu: 1 Gbit Fiber Channel, 2Gbit Fiber Channel, 4Gbit Fiber Channel, và 1Gbit iSCSI. Giao thức SCSI thông tin được vận truyển trên một giao thức thấp dựa trên quá trình mapping layer. Hầu hết các hệ thống SANs hiện hay đều sử dụng SCSI dựa trên hệ thống cáp quang để truyền dữ liệu và quá trình chuyển đội (mapping layer) từ SCSI qua cáp quang và máy chủ vẫn hiểu như SCSI là (SCSI over Fiber Channel) và FCP được coi là một chuẩn trong quá trình chuyển đổi đó. iSCSI là một dạng truyển đổi tương tự với phương pháp thiết kế mang các thông tin SCSI trên nền IP
Lợi ích khi sử dụng SAN
Dễ dàng chia sẻ lưu trữ và quản lý thông tin, mở rộng lưu trữ dễ dàng thông qua quá trình thêm các thiết bị lưu trữ vào mạng không cần phải thay đổi các thiết bị như máy chủ hay các thiết bị lưu trữ hiện có. Ứng dụng cho các hệ thống Data centrer và các Cluster. Và mỗi thiết bị lưu trữ trong mạng SAN được quản lý bởi một máy chủ cụ thể. Trong quá trình quản lý của SAN sử dụng Network Attached Storage (NAS) cho phép nhiều máy tính truy cập vào cùng một file trên một mạng. Và ngày nay có thể tích hợp giữa SAN và NAS tạo nên một hệ thống lưu trữ thông tin hoàn thiện.
SANs được thiết kế dễ dàng cho tận dụng các tính năng lưu trữ, cho phép nhiều máy chủ cùng chia sẻ một thiết bị lưu trữ.
Một ứng dụng khác của SAN là khả năng cho phép máy tính khởi động trực tiếp từ SAN mà chúng quản lý. Điều này cho phép dễ dàng thay các máy chủ bị lỗi khi đang sử dụng và có thể cấu hình lại cho phép thay đổi hay nâng cấp máy chủ một cách dễ dàng và dữ liệu không hề ảnh hưởng khi máy chủ bị lỗi. Và quá trình đó có thể chỉ cần nửa giờ để có một hệ thống Data Centers. Và được thiết kế với tốc độ truyền dữ liệu cực lớn và độ an toàn của hệ thống được coi là vấn đề hàng đầu.
SAN cung cấp giải pháp khôi phục dữ liệu một cách nhanh chóng bằng cách thêm và các thiết bị lưu trữ và có khả năng khôi phục cực nhanh dữ liệu khi một thiết bị lưu trữ bị lỗi hay không truy cập được (secondary aray).
Các hệ thống SAN mới hiện nay cho phép (duplication) sao chép hay một tập tin được ghi tại hai vùng vật lý khác nhau (clone) cho phép khôi phục dữ liêu cực nhanh.
Điều khiển đĩa
Quá trình điều khiển cho SAN trong môi trường doanh nghiệp với sự phát triển nhanh chóng yêu cầu sự đáp ứng về truyền dữ liệu với tốc độ cực cao tới các ổ đĩa (như các dữ liệu truyền từ các hệ thống mail servers, máy chủ dữ liệu, và các máy chủ file server). Trong quá trình phát triển trước kia, với mạng doanh nghiệp dùng hệ thốg lưu trữ với khả năng đáp ứng cao sử dụng lưu trữ SCSI và RAIDs điều khiển các mảng đĩa cứng được tích hợp trực tiếp trên máy chủ. Và bây giờ với công nghệ Mạng trên nền tảng IP, và khi các ứng dụng dữ liệu sử dụng hết toàn bộ các ổ lưu trữ trên các máy chủ và các người dùng cuối yêu cầu phải thay máy chủ đáp ứng các yêu cầu công việc. Nhưng với SAN việc nâng cấp các thiết bị lưu trữ là rất đơn giản với việc thêm vào mạng các thiết bị lưu trữ mới.
Điều khiển đĩa sử dụng trong môi trường SAN được thiết kế cung cấp với tốc độ cao, độ tin cậy lớn “Visual Hard Driver” (hay LUNs). Thêm nữa mô hình SANs cho phép tích hợp lẫn các thiết bị FC SATA và FC SCSI (FC SATA là thiết bị lưu trữ sử dụng các ổ đĩa dạng SATA và sử dụng cáp quang để truyền dữ liệu tới môi trường mạng). SATA làm việc với khả năng thấp, có nhiều lỗi xảy ra nhưng lưu trữ lớn và giá thành rẻ hơn rất nhiều so với các ổ đĩa SCSI. Nó cho phép các mạng SANs sử dụng nó để như một thiết bị sao lưu dự phòng khi có lỗi xảy ra. Và hâu hết các SAN đều dử dụng FC SATA như một thiết bị backup với lưu trữ lớn và tốc độ nhanh hơn rất nhiều so với tape drivers.
Các dạng SANs
SANs được xây dựng với thiết kế dành riêng cho việc lưu trữ và truyền thông tin. Nó cung cấp khả năng truyền dữ liệu với tốc độ lớn với độ an toàn cao hơn các giao thức khác như NAS.
Hầu hết các công nghệ SAN là mạng cáp quang (Fiber Channel Networking) với các thiết bị lưu trữ sử dụng các ổ địa SCSI. Một dạng cụ thể là FiBre Channel SAN được xây dựng bởi Fibre Channel Switch được kết nối tới các thiết bị thông qua hệ thống cab quang. Ngày nay hầu hết các hệ thống SAN đều sử dụng giải pháp định tuyến Fibre Channel, và mang lại khả năng mở rộng lớn cho cấu trúc SAN cho phép kết hợp các hệ thống SAN lại với nhau. Tuy nhiên hầu hết quá trình đó đều với mục đích dữ liệu tập trung và truyền với tốc độ cực cao với khoảng cách xa hơn thông tầng vật lý là cáp quang, switch quang.
Một dạng khác của SAN là sử dụng giao thức iSCSI nó sử dụng giao thức SCSI trên nền tảng TCP/IP. Trong dạng này, các switch tương tự như Ethernet Switchs. Chuẩn iSCSI được giới thiệu năm 2003 và được triển khai rộng lớn trong quá trình lưu trữ mạng (lưu trữ không yêu cầu tốc độ lớn) và từ khi ứng dụng cáp quang trong quá trình truyền dữ liệu mang lại hiệu năng lớn cho iSCSI. Ngày nay hầu hết các hệ thống isSCSI sử dụng cáp quang trong quá trình truyền dữ liệu và sử dụng giao thức NAS như CIFS và NFS.
Một dạng khác của iSCSI là ATA-over-Ethernet hay giao thức AoE được xây dựng sử dụng giao thức ATA trên khung nền tảng Ethernet. Trong khi giao thức Ethernet như AoE không thể định tuyến và cung cấp các hiệu năng khác nhau.
Kết nối với SAN sẽ có một hay nhiều máy chủ và một hay nhiều các thiết bị lưu trữ khác nhau. Trong FC SAN máy chủ cũng sử dụng cáp quang để truyền dữ liệu (host bus adapter and Optical fibre). isSCSI SAN sử dụng giao thức Ethernet bình thường thông qua card mạng hay TOE card.
SAN có hai dạng là: Centralized storage are networks và distributed storage area network.
Tương thích
Một vấn đề sảy ra khi sử dụng FC SANs là các Switch và các phần cứng khác nhà cung cấp sẽ không
Trong khi vấn đề xảy ra với FC SAN trong quá trình xây dựng khác nhà sản xuất phần cứng thì giải pháp iSCSI dựa trên nền tảng IP lại không xảy ra vấn đề này.
SANs trong môi trường làm việc
SAN được sử dụng trong môi trường yêu cầu mở rộng nhanh chóng các thiết bị lưu trữ, và yêu cầu đáp ứng công việc cao (truyền dữ liệu với tốc độ lớn). Nó cho phép các thiết bị FC disk driver kết nối trực tiếp đến SAN. SAN như các mạng bình thường của các thiết bị lưu trữ với dung lượng lớn. SAN là giải pháp đắt tiền với hệ thống Fibre Channel hay các card chuyên dụng cho các máy tính. Côn nghệ iSCSI SAN là giải pháp đáp ứng được với yêu cầu giá cả của SAN, nhưng không như công nghệ sử dụng cho mạng doanh nghiệp lớn Data Center. Các máy con có thể sử dụng giao thức NAS như CIFS hay NFS. Với khả năng truy cập từ xa và khôi phục dữ liệu nhanh chóng khi xảy ra lỗi. Đáp ứng tốt cho giải pháp Data Center. Và khả năng của iSCSI đáp ứng với các môi trường ứng dụng không đòi hỏi khả năng đáp ứng cực lớn. Với FC SAN đáp ứng các yêu cầu khắt khe nhất về ứng dụng.
SAN trong ứng dụng ngày này
Trong quá trình phát triển nhanh chóng các dữ liệu của doanh nghiệp hay tổ chức vừa và nhỏ đều yêu cầu có một thiết bị lưu trữ với dung lượng lớn và độ an toàn thông tin cao và SAN là một giải pháp đáp ứng các yêu cầu khắt khe nhất của doanh nghiệp.
Với tốc độ truyền dữ liệu từ 300Mbit/s đến 4Gbit/s sẽ đáp ứng được các ứng dụng về ghi và cung cấp dữ liệu cho nhu cầu hiện nay và trong tương lai
Thanks & regards
thoaitran@thp.com.vn
trantanthoai@gmail.com
www.thp.com.vn
Với những ưu điểm nổi chội SANs đã trở thành một giải pháp rất tốt cho lưu trữ thông tin cho doanh nghiệp hay tổ chức. SAN cho phép kết nối từ xa tới các thiết bị lưu trữ trên mạng như: Disks và Tape drivers. Các thiết bị lưu trữ trên mạng, hay các ứng dụng chạy trên đó được thể hiện trên máy chủ như một thiết bị của máy chủ (as locally attached divices)
Có hai sự khác nhau cơ bản trong các thành phần của SANs
1. Mạng (network) có tác dụng truyền thông tin giữa thiết bị lưu trữ và hệ thống máy tính. Một SAN bao gồm một cấu trúc truyền tin, nó cung cấp kết nối vật lý, và quản lý các lớp, tổ chức các kết nối, các thiết bị lưu trữ, và hệ thống máy tính sao cho dữ liệu truyền trên đó với tốc độ cao và tính bảo mật. Giới hạn của SAN thường được nhận biết với dịch vụ Block I/O đúng hơn là với dịch vụ File Access.
2. Một hệ thống lưu trữ bao gồm các thiết bị lưu trữ, hệ thống máy tính, hay các ứng dụng chạy trên nó, và một phần rất quan trọng là các phần mềm điều khiển, quá trình truyền thông tin qua mạng
Định nghĩa SAN
Lưu trữ mạng có thể được hiểu như một phương pháp truy cập dữ liệu ứng dụng trên nền tảng mạng mà quá trình truyền dữ liệu trên mạng tương tự như quá trình truyền dữ liệu từ các thiết bị quen thuộc trên máy chủ như Disks Drivers như ATA, SCSI.
Trong một mạng lưu trữ, một máy chủ sử dụng một yêu cầu cho một gói dữ liệu cụ thể hay một dữ liệu cụ thể, từ một đĩa lưu trữ và các yêu cầu được đáp ứng. Phương pháp này được biết là block storage. Các thiết bị được làm việc như một thiết bị lưu trữ bên trong máy chủ và được truy cập một cách bình thường thông qua các yêu cầu cụ thể và quá trình đáp ứng bằng cách gửi các yêu cầu và nhận được trên môi trường mạng mà thôi.
Theo truyền thống phương pháp truy cập vào file như SMB/CIFS hay NFS, một máy chủ sử dụng các yêu cầu cho một file như một thành phần của hệ thống file trên máy, và được quản lý bình thường với máy chủ. Quá trình điều khiển đó được quyết định từ tầng vật lý của dữ liệu, truy cập vào nó như một ổ đĩa bên trong máy chủ và được điều khiển và sử dụng trực tiếp trên máy chủ. Chỉ khác một điều dữ liệu bình thường thông qua hệ thống bus còn SAN dựa trên nền mạng.
Các hệ thống lưu trữ mạng sử dụng giao thức SCSI cho quá trình truyền dữ liệu từ máy chủ đến các thiết bị lưu trữ, không thông qua các Bus hệ thống. Cụ thể tầng vật lý của SAN được sử dụng dựa trên các cổng quang để truyền dữ liệu: 1 Gbit Fiber Channel, 2Gbit Fiber Channel, 4Gbit Fiber Channel, và 1Gbit iSCSI. Giao thức SCSI thông tin được vận truyển trên một giao thức thấp dựa trên quá trình mapping layer. Hầu hết các hệ thống SANs hiện hay đều sử dụng SCSI dựa trên hệ thống cáp quang để truyền dữ liệu và quá trình chuyển đội (mapping layer) từ SCSI qua cáp quang và máy chủ vẫn hiểu như SCSI là (SCSI over Fiber Channel) và FCP được coi là một chuẩn trong quá trình chuyển đổi đó. iSCSI là một dạng truyển đổi tương tự với phương pháp thiết kế mang các thông tin SCSI trên nền IP
Lợi ích khi sử dụng SAN
Dễ dàng chia sẻ lưu trữ và quản lý thông tin, mở rộng lưu trữ dễ dàng thông qua quá trình thêm các thiết bị lưu trữ vào mạng không cần phải thay đổi các thiết bị như máy chủ hay các thiết bị lưu trữ hiện có. Ứng dụng cho các hệ thống Data centrer và các Cluster. Và mỗi thiết bị lưu trữ trong mạng SAN được quản lý bởi một máy chủ cụ thể. Trong quá trình quản lý của SAN sử dụng Network Attached Storage (NAS) cho phép nhiều máy tính truy cập vào cùng một file trên một mạng. Và ngày nay có thể tích hợp giữa SAN và NAS tạo nên một hệ thống lưu trữ thông tin hoàn thiện.
SANs được thiết kế dễ dàng cho tận dụng các tính năng lưu trữ, cho phép nhiều máy chủ cùng chia sẻ một thiết bị lưu trữ.
Một ứng dụng khác của SAN là khả năng cho phép máy tính khởi động trực tiếp từ SAN mà chúng quản lý. Điều này cho phép dễ dàng thay các máy chủ bị lỗi khi đang sử dụng và có thể cấu hình lại cho phép thay đổi hay nâng cấp máy chủ một cách dễ dàng và dữ liệu không hề ảnh hưởng khi máy chủ bị lỗi. Và quá trình đó có thể chỉ cần nửa giờ để có một hệ thống Data Centers. Và được thiết kế với tốc độ truyền dữ liệu cực lớn và độ an toàn của hệ thống được coi là vấn đề hàng đầu.
SAN cung cấp giải pháp khôi phục dữ liệu một cách nhanh chóng bằng cách thêm và các thiết bị lưu trữ và có khả năng khôi phục cực nhanh dữ liệu khi một thiết bị lưu trữ bị lỗi hay không truy cập được (secondary aray).
Các hệ thống SAN mới hiện nay cho phép (duplication) sao chép hay một tập tin được ghi tại hai vùng vật lý khác nhau (clone) cho phép khôi phục dữ liêu cực nhanh.
Điều khiển đĩa
Quá trình điều khiển cho SAN trong môi trường doanh nghiệp với sự phát triển nhanh chóng yêu cầu sự đáp ứng về truyền dữ liệu với tốc độ cực cao tới các ổ đĩa (như các dữ liệu truyền từ các hệ thống mail servers, máy chủ dữ liệu, và các máy chủ file server). Trong quá trình phát triển trước kia, với mạng doanh nghiệp dùng hệ thốg lưu trữ với khả năng đáp ứng cao sử dụng lưu trữ SCSI và RAIDs điều khiển các mảng đĩa cứng được tích hợp trực tiếp trên máy chủ. Và bây giờ với công nghệ Mạng trên nền tảng IP, và khi các ứng dụng dữ liệu sử dụng hết toàn bộ các ổ lưu trữ trên các máy chủ và các người dùng cuối yêu cầu phải thay máy chủ đáp ứng các yêu cầu công việc. Nhưng với SAN việc nâng cấp các thiết bị lưu trữ là rất đơn giản với việc thêm vào mạng các thiết bị lưu trữ mới.
Điều khiển đĩa sử dụng trong môi trường SAN được thiết kế cung cấp với tốc độ cao, độ tin cậy lớn “Visual Hard Driver” (hay LUNs). Thêm nữa mô hình SANs cho phép tích hợp lẫn các thiết bị FC SATA và FC SCSI (FC SATA là thiết bị lưu trữ sử dụng các ổ đĩa dạng SATA và sử dụng cáp quang để truyền dữ liệu tới môi trường mạng). SATA làm việc với khả năng thấp, có nhiều lỗi xảy ra nhưng lưu trữ lớn và giá thành rẻ hơn rất nhiều so với các ổ đĩa SCSI. Nó cho phép các mạng SANs sử dụng nó để như một thiết bị sao lưu dự phòng khi có lỗi xảy ra. Và hâu hết các SAN đều dử dụng FC SATA như một thiết bị backup với lưu trữ lớn và tốc độ nhanh hơn rất nhiều so với tape drivers.
Các dạng SANs
SANs được xây dựng với thiết kế dành riêng cho việc lưu trữ và truyền thông tin. Nó cung cấp khả năng truyền dữ liệu với tốc độ lớn với độ an toàn cao hơn các giao thức khác như NAS.
Hầu hết các công nghệ SAN là mạng cáp quang (Fiber Channel Networking) với các thiết bị lưu trữ sử dụng các ổ địa SCSI. Một dạng cụ thể là FiBre Channel SAN được xây dựng bởi Fibre Channel Switch được kết nối tới các thiết bị thông qua hệ thống cab quang. Ngày nay hầu hết các hệ thống SAN đều sử dụng giải pháp định tuyến Fibre Channel, và mang lại khả năng mở rộng lớn cho cấu trúc SAN cho phép kết hợp các hệ thống SAN lại với nhau. Tuy nhiên hầu hết quá trình đó đều với mục đích dữ liệu tập trung và truyền với tốc độ cực cao với khoảng cách xa hơn thông tầng vật lý là cáp quang, switch quang.
Một dạng khác của SAN là sử dụng giao thức iSCSI nó sử dụng giao thức SCSI trên nền tảng TCP/IP. Trong dạng này, các switch tương tự như Ethernet Switchs. Chuẩn iSCSI được giới thiệu năm 2003 và được triển khai rộng lớn trong quá trình lưu trữ mạng (lưu trữ không yêu cầu tốc độ lớn) và từ khi ứng dụng cáp quang trong quá trình truyền dữ liệu mang lại hiệu năng lớn cho iSCSI. Ngày nay hầu hết các hệ thống isSCSI sử dụng cáp quang trong quá trình truyền dữ liệu và sử dụng giao thức NAS như CIFS và NFS.
Một dạng khác của iSCSI là ATA-over-Ethernet hay giao thức AoE được xây dựng sử dụng giao thức ATA trên khung nền tảng Ethernet. Trong khi giao thức Ethernet như AoE không thể định tuyến và cung cấp các hiệu năng khác nhau.
Kết nối với SAN sẽ có một hay nhiều máy chủ và một hay nhiều các thiết bị lưu trữ khác nhau. Trong FC SAN máy chủ cũng sử dụng cáp quang để truyền dữ liệu (host bus adapter and Optical fibre). isSCSI SAN sử dụng giao thức Ethernet bình thường thông qua card mạng hay TOE card.
SAN có hai dạng là: Centralized storage are networks và distributed storage area network.
Tương thích
Một vấn đề sảy ra khi sử dụng FC SANs là các Switch và các phần cứng khác nhà cung cấp sẽ không
Trong khi vấn đề xảy ra với FC SAN trong quá trình xây dựng khác nhà sản xuất phần cứng thì giải pháp iSCSI dựa trên nền tảng IP lại không xảy ra vấn đề này.
SANs trong môi trường làm việc
SAN được sử dụng trong môi trường yêu cầu mở rộng nhanh chóng các thiết bị lưu trữ, và yêu cầu đáp ứng công việc cao (truyền dữ liệu với tốc độ lớn). Nó cho phép các thiết bị FC disk driver kết nối trực tiếp đến SAN. SAN như các mạng bình thường của các thiết bị lưu trữ với dung lượng lớn. SAN là giải pháp đắt tiền với hệ thống Fibre Channel hay các card chuyên dụng cho các máy tính. Côn nghệ iSCSI SAN là giải pháp đáp ứng được với yêu cầu giá cả của SAN, nhưng không như công nghệ sử dụng cho mạng doanh nghiệp lớn Data Center. Các máy con có thể sử dụng giao thức NAS như CIFS hay NFS. Với khả năng truy cập từ xa và khôi phục dữ liệu nhanh chóng khi xảy ra lỗi. Đáp ứng tốt cho giải pháp Data Center. Và khả năng của iSCSI đáp ứng với các môi trường ứng dụng không đòi hỏi khả năng đáp ứng cực lớn. Với FC SAN đáp ứng các yêu cầu khắt khe nhất về ứng dụng.
SAN trong ứng dụng ngày này
Trong quá trình phát triển nhanh chóng các dữ liệu của doanh nghiệp hay tổ chức vừa và nhỏ đều yêu cầu có một thiết bị lưu trữ với dung lượng lớn và độ an toàn thông tin cao và SAN là một giải pháp đáp ứng các yêu cầu khắt khe nhất của doanh nghiệp.
Với tốc độ truyền dữ liệu từ 300Mbit/s đến 4Gbit/s sẽ đáp ứng được các ứng dụng về ghi và cung cấp dữ liệu cho nhu cầu hiện nay và trong tương lai
Thanks & regards
thoaitran@thp.com.vn
trantanthoai@gmail.com
www.thp.com.vn
NetAndSoft- Tổng số bài gửi : 6
Join date : 12/05/2009
Re: Giới thiệu HDD cấu hình RAID(Redundant Array of Independent Disk)
toàn là RAID mềm, thế bạn nào có RAID cứng cụ thể thì post lên chi tiết với
LePhiTruong- Tổng số bài gửi : 31
Join date : 11/05/2009
Re: Giới thiệu HDD cấu hình RAID(Redundant Array of Independent Disk)
RAID cứng thì cũng gần giống RAID mềm thôi, khác ở chỗ làm sao để vào đc mục tạo RAID ấy mà.
Card RAID sẽ có một BIOS của riêng nó, khi đã cắm card vào máy, mỗi khi khởi động BIOS này sẽ cho biết tổ hợp phím cần bấm để vào phần setup của nó (giống như BIOS của main ấy mà), thường tổ hợp phím này là Ctrl + E, Ctrl + A, Ctrl + I tùy theo nhà sản xuất card.
Khi bấm tổ hợp phím này ta sẽ vào đc giao diện setup BIOS của card RAID, ở đây ta sẽ có các tùy chọn:
+ Add disk để lựa chọn các HDD cần tạo khối RAID.
+ Sau khi chọn các HDD, ta sẽ chọn loại RAID mà card hỗ trợ, vd như 0, 1, 5, 10,...
Các tùy chọn này cũng giống như tùy chọn BIOS của mainboard ấy mà, rất dễ hiểu. Sau khi đã chọn xong, ta lưu lại cấu hình là card bắt đầu làm việc và tiến hành thiết lập chế độ RAID trên các HDD đã đc chọn trước đó.
Một cách khác nữa là card sẽ đi kèm với một CD hoặc đĩa mềm có chứa phần mềm thiết lập RAID của nhà sản xuất, phần mềm này thường có GUI dễ hiểu hơn là dạng chỉnh BIOS
Lưu ý là ta tạo RAID trước khi cài HĐH cho nên lúc cài HĐH ta cần bổ sung driver RAID để HĐH hiểu khối RAID ta vừa tạo nha, vd như khi cài Win nó sẽ có dòng thông báo "Press F6 to install third-party driver", lúc này ta sẽ đưa đĩa mềm driver kèm theo card vào để cài driver RAID, cài xong driver này thì Windows mới tiếp tục setup được.
Mọi người thông cảm là kì này không có hình minh họa nha.
Card RAID sẽ có một BIOS của riêng nó, khi đã cắm card vào máy, mỗi khi khởi động BIOS này sẽ cho biết tổ hợp phím cần bấm để vào phần setup của nó (giống như BIOS của main ấy mà), thường tổ hợp phím này là Ctrl + E, Ctrl + A, Ctrl + I tùy theo nhà sản xuất card.
Khi bấm tổ hợp phím này ta sẽ vào đc giao diện setup BIOS của card RAID, ở đây ta sẽ có các tùy chọn:
+ Add disk để lựa chọn các HDD cần tạo khối RAID.
+ Sau khi chọn các HDD, ta sẽ chọn loại RAID mà card hỗ trợ, vd như 0, 1, 5, 10,...
Các tùy chọn này cũng giống như tùy chọn BIOS của mainboard ấy mà, rất dễ hiểu. Sau khi đã chọn xong, ta lưu lại cấu hình là card bắt đầu làm việc và tiến hành thiết lập chế độ RAID trên các HDD đã đc chọn trước đó.
Một cách khác nữa là card sẽ đi kèm với một CD hoặc đĩa mềm có chứa phần mềm thiết lập RAID của nhà sản xuất, phần mềm này thường có GUI dễ hiểu hơn là dạng chỉnh BIOS
Lưu ý là ta tạo RAID trước khi cài HĐH cho nên lúc cài HĐH ta cần bổ sung driver RAID để HĐH hiểu khối RAID ta vừa tạo nha, vd như khi cài Win nó sẽ có dòng thông báo "Press F6 to install third-party driver", lúc này ta sẽ đưa đĩa mềm driver kèm theo card vào để cài driver RAID, cài xong driver này thì Windows mới tiếp tục setup được.
Mọi người thông cảm là kì này không có hình minh họa nha.
Thuy Trang- Tổng số bài gửi : 25
Join date : 22/02/2009
Similar topics
» Giới thiệu HDD cấu hình RAID(Redundant Array of Independent Disk)
» gioi thieu RAID
» GIỚI THIỆU GHOST ĐA CẤU HÌNH CHO HĐH WINDOWS XP
» GIỚI THIỆU GHOST ĐA CẤU HÌNH CHO HĐH WINDOWS XP
» giới thiệu máy in ảo
» gioi thieu RAID
» GIỚI THIỆU GHOST ĐA CẤU HÌNH CHO HĐH WINDOWS XP
» GIỚI THIỆU GHOST ĐA CẤU HÌNH CHO HĐH WINDOWS XP
» giới thiệu máy in ảo
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết